Đọc “Có Một Thời Nhân Chứng” của Lê Lạc Giao
Từng trang trong tiểu thuyết “Có Một Thời Nhân Chứng” khi lật qua trước mắt tôi, y hệt như tấm gương chiếu rọi về một thời kỳ nửa thế kỷ trước; đó là những ngày thơ mộng sinh viên, hạnh phúc của những mối tình thời mới lớn, và đau đớn khi nhìn thấy xóm làng chia cách giữa lằn ranh nội chiến. Từng trang là hình ảnh hiển lộ từ một cuốn phim đen trắng của thời nghệ thuật điện ảnh chưa có màu… là một dòng chảy thời gian của dân tộc in sâu trong ký ức của thế hệ sinh viên Sài Gòn trong các năm cuối thập niên 1960s và đầu 1970s. Nơi đó tôi nhìn thấy hình ảnh Miền Nam trong cuộc nội chiến dai dẳng, nơi lằn ranh quốc-cộng có khi rất mờ nhạt nơi sân trường đại học Sài Gòn – nơi có những người bạn của tôi đứng ở cả hai bên lằn ranh quốc-cộng mờ nhạt đó. Và trong ký ức đó, có rất nhiều người đã mất một phần thân thể cho cuộc chiến, hay đã nằm xuống nơi chiến trường, nơi nhà tù sau 1975, nơi biển lớn Thái Bình Dương, và rồi khắp mọi nơi chúng ta có thể nghĩ tới.
Đó là một thời kỳ, như tác giả Lê Lạc Giao viết nơi Chương Những Kẻ Mang Vác Trên Lưng Nấm Mồ của “Có Một Thời Nhân Chứng” (CMTNC) là khi cả một thế hệ của anh: “…kêu gào ‘chiến tranh ơi hãy dừng lại một ngày!’ nhưng ngày vẫn trôi, máu vẫn đổ và việc giết nhau cứ tiếp tục…”
Trang đầu của tiểu thuyết bắt đầu từ một phòng thể dục Quận Cam, khi tác giả nhìn thấy một thương binh và nhớ lại… và kết thúc tiểu thuyết là nơi nhà của Phác, nhân vật chính trong truyện, khi hai người bạn gặp lại bốn mươi sáu năm sau. Trải dài trong tiểu thuyết là nhiều địa danh, trong nhiều bối cảnh và nhân vật khác nhau, trong đó tập trung các nhân vật chính là một thế hệ sinh viên Sài Gòn trước 1975, cụ thể phần lớn trong sân Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, nơi đó nhiều nhân vật có thể được một số độc giả liên tưởng như bạn này, bạn kia. Thực ra, tiểu thuyết này có hư cấu, từ cốt truyện là những sự kiện xảy ra trong các năm 1968-1975, nhưng các nhân vật đều hư cấu -- tác giả ghi rõ trong Lời Mở Đầu như thế, và bản thân tôi, bạn của tác giả từ thời cùng học Ban Triết trong Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và cùng hoạt động trong Nhóm Nghiên Cứu Triết Học trong trường, cũng nhận ra như thế. Nhưng không thể không liên tưởng nhân vật với người này, người kia, vì khi kể về việc làm, về diễn tiến trong sân trường Đại Học Văn Khoa các năm này, hiển nhiên là phải có ai làm, có người làm. Đó là lý do để liên tưởng.
Các độc giả từng học trong Đại Học Văn Khoa thời đó có thể liên tưởng dễ dàng ai là những người sinh viên Ban Sử Địa thân cộng, xách động biểu tình phản chiến thời trước 1975, tham dự đốt xe Mỹ, vào Quang Trung học quân sự học đường cũng xách động không ra sân học, thậm chí gom vạt giường trại lính ra sân đốt, bị cảnh sát bắt giam rồi thả nhiều bận… Rồi liên tưởng tới các bạn thân cộng (và/hay nằm vùng) sau 1975 giữ nhiều chức vụ với chế độ mới cho tới khi bị đẩy ra ngoài lề -- các năm gần đây, khi tuổi mấp mé thất thập, các cựu sinh viên thân cộng này viết một số bài viết với ngôn ngữ thức tỉnh. Mọi chuyện trễ rồi. Và một số người khác, bên kia và bên này. Nhân vật hư cấu, nhưng sự kiện có thật.
Tiểu thuyết Lê Lạc Giao không chỉ nói về một thế hệ sinh viên trong cơn bão chiến tranh, trong đợt Tổng Động Viên 1972 đã tham chiến trong các binh chủng, nhưng cũng kể về các mạng lưới tình báo VC gài nơi sân trường, và nơi đó trực diện kình lại chính là các sinh viên chống cộng, trong đó có người hoạt động cho Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH. Nhiều người là bạn học của nhau, là bạn một thời rủ nhau la cà trong các quán cà phê ven đường Nguyễn Du gần các khuôn viên đại học Sài Gòn, và rồi đối mặt nhau, quan sát nhau, theo dõi nhau, gài bẫy nhau trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Bản thân tôi có một kỷ niệm, đã chứng kiến trong một lớp năm thứ nhất của Ban Triết Đại Học Văn Khoa (hình như năm 1971 hay 1972) hai cô đẹp nhất lớp đã kình nhau, cùng tranh cử Ban đại diện lớp, và cô nói giọng Miền Trung đứng về bên những người thân cộng, và cô nói giọng Sài Gòn đứng về phe chống cộng. Trong buổi đó, tôi nhìn thấy hai cô đứng lên đấu khẩu với nhau… trong khi cả lớp lắng nghe để sẽ bầu chọn. Nửa thế kỷ sau, khi dòng thời gian phủ trắng một phần mái tóc của Lê Lạc Giao, tôi nói với tác giả này rằng lúc đó chỉ một cô là bạn, và bây giờ cả hai cô đều là bạn của chúng ta. Dĩ nhiên, hình ảnh đó không có trong tiểu thuyết này.
Một vài bạn cựu sinh viên Văn Khoa Sài Gòn cũng có thể nhớ tới một nữ sinh viên từ Miền Tây vào Sài Gòn học, thuộc thế hệ trước 1975 một hay hai năm, dễ dàng lộ diện là VC nằm vùng… Cô này bây giờ là bà Chủ Tịch Quốc Hội CSVN Nguyễn Thị Kim Ngân. Đó là một thời sân trường đại học xôi đậu như thế, da beo như thế. Có hình ảnh nhân vật nào trong tiểu thuyết này làm độc giả liên tưởng tới bà Ngân bây giờ hay không? Đó cũng là một câu hỏi cho độc giả thử suy đoán. Nhắc lại, sử liệu trong tiểu thuyết là có thật, nhưng nhân vật là hư cấu.
Cuộc chiến đối với dân Sài Gòn thực tế trong nhiều năm vẫn là cái gì xa lạ… Suy nghĩ của thế hệ cao niên lúc đó là, thí dụ trong truyện, như cụ bà tên Nhu, người Bắc di cư năm 1954, nói với chàng sinh viên tên Phác (nhân vật chính), “Cháu ráng học nên người, để khỏi phải đi lính.” Nghĩa là, cuộc chiến là cái gì nên tránh né. Không phải cuộc chiến chống cộng thiếu chính nghĩa đâu, nhưng chỉ vì không ai (dĩ nhiên, trừ Hà Nội) muốn bước vào cuộc huynh đệ tương tàn. Cuộc chiến với dân Sài Gòn chỉ là tiếng vọng đại bác từ xa. Với thế hệ trẻ lúc đó, niềm vui thường là ra quán cà phê với bạn, ngồi hút thuốc là phì phèo, và như tác giả mô tả là “đắm đuối nghe dòng tình ca Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.”
Lê Lạc Giao sử dụng nhiều vị trí viết, có lúc ở ngôi thứ ba, nhìn Phác như người khác; có lúc dùng ngôi thứ nhất xưng “tôi” cho Phác. Nhưng độc giả nên cẩn trọng, trong truyện có hư cấu, cho nên không thể đồng hóa nhân vật chính với tác giả. Tương tự, các nhân vật khác trong truyện cũng thế, tuy tôi nhận ra vài người, nhưng trong đó vẫn có phần hư cấu. Dĩ nhiên, phải hư cấu mới là tiểu thuyết. Dù vậy một số nhân vật trong truyện được kể là từ Nha Trang, từ Pleiku vào Sài Gòn theo học ở Đại Học Khoa Học và Đại Học Văn Khoa đã hiện ra trong trí nhớ của tôi. Những hình dáng cao hay thấp, những tiếng cười, những kiểu ngồi trầm tư ở quán cà phê… của một vài bạn tôi hiện ra lung linh.
Có một thời như thế. Vâng, có một thời thế hệ chúng tôi là nhân chứng cho cuộc chiến quốc cộng trong các sân trường đại học Sài Gòn, rồi tới những màn quậy phá của sinh viên thân cộng khi vào quân trưởng để dự các khóa quân sự học đường, rồi với nhiều bạn bước thẳng vào cuộc chiến, và rồi khi Miền Nam thất trận… một bầu trời sụp đổ.
Trong bầu không khí gay gắt mùi khói súng như thế, hạnh phúc là khi nhìn thấy những hình ảnh dịu dàng, như dường thế giới này không có thực, như dường thế giới này không hề có chiến trận. Những mối tình trong truyện Lê Lạc Giao không sôi nổi như phim ảnh và truyện bây giờ, nhưng rất mực đằm thắm. Tôi say ngây ngất như đang uống ly rượu nếp than khi đọc một số trang, nơi Lê Lạc Giao kể về những cặp tình nhân trong truyện. Điển hình như một mối tình thời trung học, như khi Hải và Vân yêu thương nhau -- say đắm nhau, đồng thời là dè dặt và tránh né nhau – giữa lúc cô bé Vân rơi vào cơn bệnh nan y lạ lùng, bệnh tóc trắng khi tuổi còn dậy thì.
Đúng ra, thời nửa thế kỷ trước hễ yêu nhau thì thơ mộng là chính yếu; ngay cả nắm tay có khi cũng là tình cờ, hay hy hữu. Nhưng vẫn là thương nhớ nhau quay quắt. Có khi nỗi nhớ buộc nhân vật chính bước đi mà không biết là đi đâu.
Thí dụ, khi kể về nỗi cô đơn mơ hồ, Lê Lạc Giao viết: “Buổi chiều cuối tuần, Phác lang thang đến công viên Gia Long. Ngồi trên chiếc ghế đá dưới gốc cây si rễ chằng chịt, Phác nhìn thành phố chuyển động trong bóng hoàng hôn như ảo ảnh…” Thời này không ai nhìn nỗi cô đơn của mình trong bóng hoàng hôn như thế. Nhưng đó là một thời sống với thế giới thực, trong khi bây giờ chỉ mở điện thoại di động ra, bấm vài nút là cả một thế giới ảo hiện ra.
Hay là khi hình ảnh người thương cụ thể hơn, tác giả viết: “Mùa xuân năm 1970, Phác một mình ra Vũng tàu vào chiều thứ bảy. Anh đến bãi sau, đứng trên bờ biển nhớ màu trời, màu mắt và màu váy áo xanh đỏ của Huyền một chiều ngày hè cũ…” Trời ạ, chỉ nhớ màu sắc thôi sao? Chưa hề nắm tay, chưa hề chạm xúc?
Nghĩa là, nhân vật chính của một thời như thế rất là hiền lành. Không phải như kiểu nhớ thương như thế hệ hiện nay. Thời đó, chưa có điện thoại, chưa có Internet, chưa có tất cả những tiện nghi của cách mạng tin học. Không nhìn vào màn hình điện thoại, cho nên Phác nhìn thành phố chuyển động trong bóng hoàng hôn… nghĩa là, y hệt như cuốn phim đen trắng thế kỷ trước. Mọi chuyện đều chậm. Hầu như tất cả các mối tình thời đó đều diễn ra rất chậm, chậm kinh khủng.
Nhưng tại sao Phác nhớ màu trời, màu mắt và màu váy áo xanh đỏ của Huyền? Nghĩa là, chỉ nhớ những gì nhìn thấy… chứ chưa có cơ hội để nhớ những gì thuộc về vòng tay ôm và môi hôn – mà có lẽ chưa từng có trong trí nhớ lúc đó.
Không phải nhân vật nào trong truyện ở thế hệ của Phác cũng có cơ duyên vào đại học, để rồi có những lúc trong đời nhìn lại các năm thơ mộng với sách vở thời sinh viên. Đất nước mình nhiều hoàn cảnh dở dang. Hải là bạn học thời nhỏ của Phác có cuộc đời rất mực gian nan. Cha của Hải chết vì tình cờ trúng một viên đạn, khi ông chuyển lúa từ ghe lên bờ cùng lúc một toán dân vệ qua sông. Nghĩa là, súng du kích nhắm bắn vào nhóm dân vệ, nhưng lại trúng người dân thường. Khi cha chết vì đạn bay lạc như thế, Hải chỉ mới tám tuổi. Hóa, chị của Hải, bỏ học năm mười lăm tuổi để buôn bán cùng mẹ để nuôi hai em. Năm chị Hóa hai mươi mốt tuổi, có nhiều đám tới hỏi, nhưng chị đều từ chối – chị giải thích với mẹ, “…nếu xui rủi gặp phải người chồng nhiều tật xấu như cờ bạc, rượu chè thêm khổ thân. Còn lấy chồng quân nhân thì càng không nên!”
Chị Hóa sợ chiến tranh tới mức như thế… Đúng là thời đó như thế, có nhiều thiếu nữ sợ mang thêm nhiều nỗi lo khi lấy chồng quân nhân. Hãy hình dung một thiếu nữ giỏi, khéo và đẹp như chị Hóa: cha chết vì trúng đạn lạc, chị bỏ học sớm để ra sạp chợ phụ mẹ buôn bán nuôi hai em nhỏ… và rồi, sợ lấy chồng quân nhân. Không, chị không hề phản chiến. Chị chỉ thấy cuộc chiến đã và đang đè nặng lên cả nước, trở thành gánh nặng quá gian nan cho thế hệ cha mẹ và rồi cho cả thế hệ của chị. Chiến tranh lúc đó đã biến nhiều vùng quê yên bình thành vùng xôi đậu hay thành chiến trường khốc liệt, đẩy phần lớn dân chúng tản cư về thành phố. Bi thảm là, theo tác giả kể, “Cuộc sống khó khăn hơn xô đẩy một số các cô gái vào nghề bán bar hoặc bán thân để có tiền nuôi sống bản thân và gia đình.” Chị Hóa từ thiếu niên đã ra ngồi buôn bán ở sạp Chợ Mới Pleiku để giúp nuôi hai em, dĩ nhiên là cực kỳ gian nan. Đã có rất nhiều học sinh nửa chừng bỏ ngang vì hoàn cảnh như thế.
Trong khi đó, một người em chị Hóa là Hải (bạn thân của Phác và Phan thời học đệ thất trung học Pleiku) đậu Tú Tài 2, tình nguyện đi sĩ quan Thủ Đức, ra trường vào Biệt Động Quân, lên trung úy là bị thương, mất một con mắt, chờ giải ngũ.
Chàng sinh viên Phác chứng kiến những cảnh đời bi thương như thế, nhìn thấy khói lửa ngút trời khắp nước, trong khi bản thân anh vẫn còn ngày ngày ôm sách vở theo học Ban Triết. Và Lê Lạc Giao kể lại, “Bạn bè Phác nằm khắp nơi trên quê hương này, đã bỏ máu xương hay từng phần thân thể... Ơi chiến tranh, xin hãy dừng lại một ngày!”
Tuy nhiên, Phác không rơi vào lập trường phản chiến như nhiều bạn trong trường.
Trong khi đó, một số sinh viên bị lôi cuốn vào cơn lốc “cách mạng”… Họ là những bạn trong Đại Học Văn Khoa, ngày ngày cũng tới trường, nhưng từ ngôn ngữ tới việc làm đều khác hẳn các sinh viên. Ngắn gọn, họ không đi học như sinh viên khác, họ tự xem chuyện đi học là một phần của cuộc “tranh đấu”… Trong truyện này, họ là Nghiên, là Kiệt, là Liễu, là một số bạn khác. Lòng họ sôi sục và biết kỹ thuật kích động, như kể lại trong truyện, “Nhắc đến chữ cách mạng, Liễu và hai nữ diễn giả bừng sáng đôi mắt, tưởng như đang thấy cao trào cách mạng diễn ra trước mắt họ. Họ nói hùng hồn, lên xuống giọng như trong một vở kịch thơ chiến tranh. Nếu cần mắt họ long lên nét thù hận…”
Giữa bầu không khí sân trường phân cực quốc-cộng mờ nhạt như thế, trong khi các trận đánh nơi xa chỉ là các bản tin vô hồn trên các nhật báo Sài Gòn, nhiều sinh viên, trong đó có Phác và nhiều bạn khác, vẫn sống với những hình ảnh thơ mộng của một Sài Gòn bình yên, nơi của nhạc Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, nơi khi mùa thi bài vở chồng chất. là rủ nhau vào thư viện Đại học Vạn Hạnh học bài. Trong truyện kể lại, sau những buổi học bài ở thư viện này, Phác ra café Nắng Mới trước cổng trường (Đại học Vạn Hạnh) ngồi nhìn xe cộ lũ lượt qua lại ngay chân cầu Trương Minh Giảng.
Độc giả sẽ thấy có một khung trời Sài Gòn được tái hiện trong tiểu thuyết CMTNC, nơi đó sẽ nhắc tới những hình ảnh tình nhân trong quán café Hân trên đường Đinh Tiên Hoàng. Hay là những hình ảnh thơ mộng và rất là ngây thơ của chàng sinh viên Ban Triết chợt “có ý nghĩ đi tìm Thủy. Một lần năm ngoái, anh đến cổng trường Marie Curie đứng rất lâu trước khi tiếng chuông báo tan học.” Nghĩa là, chuyện của thế kỷ trước. Thời này không tìm ra đâu một không khí như thế.
Đó là một thời mà giới trẻ bây giờ gọi là “thời của ông bà mình”… Vâng, thời đó như thế. Khi Huyền muốn bày tỏ quan tâm, cách đơn giản của thời đó là, như truyện kể, “Huyền mua cho Phác một tá khăn mù soa tại chợ Bến Thành.” Thế rồi Phác chở Huyền đến tiệm kem Pôle Nord. Xin nhớ rằng thời đó, khăn mù soa là sành điệu. Bây giờ, chỗ nào cũng có giấy napkin… các cơ xưởng may khăn mù soa kể như lũ lượt sập tiệm. Hay là khi Huyền đưa cho Phác quyển Love Story của Erich Segal. Thời đó, sách in trên giấy vẫn là đam mê của sinh viên Sài Gòn…
Trong không khí đó, phe sinh viên tranh đấu mỗi ngày mỗi lớn mạnh, họ biểu tình phản chiến, họ đốt xe Mỹ… Các nhân vật chính trong truyện nhìn thấy những khuôn mặt thân cộng đó. Hải, chàng thương binh trẻ có lúc bực dọc, nói với nhóm bạn rằng những chiến binh như anh đã đổ máu “cho đám thằng Nghiên đi biểu tình, nói với nó có ngày tao ném lựu đạn vào mặt nó!” Cả bốn người đều quen với Nghiên nơi sân trường đại học, nhưng lập trường quốc-cộng đã hiển lộ mấp mé.
Nói cho đúng, lý tưởng chống cộng trong một số giới trẻ thời đó không đủ sức mạnh lôi cuốn. Như trường hợp Hải tình nguyện vào Trường Bộ Binh Thủ Đức khi vừa thi đậu Tú Tài Toàn Phần chỉ vì, như chị Hóa giải thích khi nổi giận với thằng em mình, “…Hải có đủ điều kiện học tiếp lên đại học nhưng chỉ vì một người con gái đã chết lại muốn chết theo.” Cô Vân, bạn của Hải chết khi chưa rời trung học, vì ung thư máu, một căn bệnh làm tóc nàng bạc trắng. Do vậy, chị Hóa nghĩ rằng thằng Hải em mình vào lính để “tự tử chậm rãi.”
Một cao điểm làm lộ mặt các sinh viên nằm vùng là khi vào tập huấn quân sự. Chương trình còn gọi là huấn luyện quân sự học đường. Chính phủ VNCH buộc các sinh viên muốn tốt nghiệp, lãnh văn bằng là phải vào quân trường để hoàn tất khóa tập huấn quân sự.
Trong quân trường, nguyên tắc là kỷ luật rất nghiêm. Nhưng các sinh viên thân cộng cũng quậy phá theo kiểu riêng của họ. Nhiều sinh viên Sài Gòn thời kỳ đầu 1970s vẫn còn nhớ hình ảnh trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung được nhà văn Lê Lạc Giao kể lại: “Khi Thiếu tướng chỉ huy trưởng trung tâm đọc diễn từ khai mạc khóa huấn luyện xong nhắc nhở nhiều nhất là đất nước chiến tranh và cộng sản xâm lăng. Nói đến đây trong đám sinh viên tranh đấu ngồi phía sau có người hét lên, “đả đảo chiến tranh”...”
Như thế, độc giả có thể tự hỏi, khi ra chiến trường, các sinh viên thân cộng kia sẽ nổ súng về hướng nào? Hỏi là chỉ hỏi thôi. Có thể chính họ cũng không thể biết trước câu trả lời.
Truyện cũng kể lại, bên cạnh nhóm sinh viên thân cộng (hay/và nằm vùng) chính thống như Nghiên, Kiệt, Tiến… cũng có một số sinh viên chống chiến tranh kiểu chủ hòa của hippies Hoa Kỳ. Và cũng có những sinh viên lãng mạn, chỉ say mê làm thơ, như trường hợp Định bên ban Anh văn, khi tâm sự với Phác trong giờ cơm của một buổi huấn luyện quân sự chủ đề “phòng thủ đơn vị” rằng nếu sau này bị động viên, Định sẽ trốn lính, sẽ về quê ở Cai Lậy sống đời ẩn dật.
Thấy như thế, chiến tranh hiển nhiên là cái gì không được ưa thích trong đa số sinh viên Sài Gòn. Trong đó, bên cạnh nhân vật Phác trong truyện vẫn có những sinh viên chống cộng minh bạch, như Huy đang học năm cuối bên ban Pháp văn và là Ca phó một Ca đoàn Công giáo tại Sài gòn, và hầu hết sinh viên bên Đại Học Minh Đức, nơi các bạn này đa số theo Công giáo. Tương tự, cùng đơn vị quân sự học đường với Phác có Hiếu, lập trường chống cộng minh bạch, vì giải thích rằng anh xem cộng sản là kẻ thù vì họ đã giết cha Hiếu.
Nghĩa là, trong truyện Lê Lạc Giao, hình ảnh các khuôn viên đại học Sài Gòn hiện ra quốc/cộng chen nhau hệt như xôi đậu. Mà sự thực còn phức tạp hơn xôi đậu, vì không chỉ hai phía quốc-cộng, mà có cả phía lãng mạn hippies, có cả phía chủ hòa kiểu thi sĩ thành phố, kiểu lãng mạn nông dân, kiểu lương tâm tôn giáo, và nhiều lập trường phức tạp khác.
Trong khi đó, nhóm sinh viên thân cộng liên tục có những hành vi khiêu khích. Vào một đêm cuối khóa quân sự học đường, nhóm Nghiên, Kiệt… gom vạt giường trong Quân trường Quang Trung ra đốt. Quân cảnh và khóa sinh nhảy dù xông vào dập tắt lửa, vây bắt các sinh viên thân cộng này. Những hình ảnh đó được kể lại trong truyện Lê Lạc Giao bằng ngôn ngữ tiểu thuyết, nhưng chỗ này là sự thực trong ký ức tất cả các bạn Văn Khoa từng đi dự khóa quân sự học đường, trích ở Chương Tình Yêu Và Lưu Đày:
“…Thấy đám sinh viên lố nhố bên ngoài đám quân cảnh đưa loa hét, “Về phòng, ai chống đối sẽ bị bắt nhốt.” Phác cùng đám sinh viên bên ngoài lui về phía sau, anh và Cung cũng chạy sang phải phía ban quân nhạc. Có vài tiếng nổ của súng. Từ bóng tối của tàng bã đậu, Phác thấy hai chiếc xe chữa lửa chạy đến và xịt nước vào đám cháy lẫn đám sinh viên đang đồng ca. Bắt đầu đám khóa sinh nhảy dù tràn vào dùng báng súng đập thẳng tay và quân cảnh nhào đến bắt từng người đưa lên xe…”
Kết quả của đêm sinh viên thân cộng đốt giường trong quân trường là có 127 sinh viên của tiểu đoàn Trần Bình Trọng bị bắt, 36 sinh viên trong nhóm này bị thương vì xô xát với quân cảnh và khóa sinh nhảy dù.
Trong tận cùng sâu thẳm, chiến tranh là suy nghĩ thứ yếu đối với đa số sinh viên Sài Gòn. Học để thi đậu là ưu tiên môt. Vì lúc đó là sau cuộc Tổng Động Viên 1972, hễ thi rớt là phải rời đại học để đi lính. Sau ưu tiên học mới bàn tới chuyện khác, kể cả chuyện tình cảm.
Tiểu thuyết Lê Lạc Giao giành riêng Chương Biển Một Thời Tuổi Trẻ, kể chuyện Phan về thăm nhà ở Nha Trang. Nơi đó, cha của Phan trong một buổi cùng con đi dạo ra ven biển, về hướng Cầu Đá, hỏi Phan rằng nếu thi rớt ở đại học Sài Gòn, Phan có muốn vào ngành cảnh sát hay không, vì ông cụ có thể nhờ một số bạn thân trong Quân khu 2 chạy cho Phan vào làm cảnh sát.
Nghe cha nói như thế, Phan thấy khó chịu, vì nhớ tới Hải, người bạn học bây giờ là một thương binh, và cũng vì Phan thấy chuyện cầm súng ra chiến trường là nhiệm vụ tự nhiên.
Đó cũng là tâm thức của các ông bà cụ khi suy nghĩ về cuộc chiến huynh đệ tương tàn này, khi thấy người cầm súng bên kia chiến tuyến cũng không thực sự là kẻ thù.
Tiểu thuyết này cũng giành riêng chương “Có Một Lần Thương Binh và Tù Binh” để kể chuyện Hải về Pleiku thăm mẹ và chị, rồi tới Quy Nhơn thăm anh Học. Trong các bạn học thời thơ ấu của Hải, có Can và Lộc đã vào quân lực VNCH. Trong khi đó, anh Học đã về dạy trung học ở Quy Nhơn, nói với Hải một cách lo ngại rằng, “…Em có thấy người Bình Định đa phần thích cộng sản hay không. Làng chúng ta ngày xưa gần hai phần ba lên núi theo bên kia. Tại sao? Chỉ một ít người trong đó có chúng ta không thích cộng sản mà thôi.”
Ngồi nói chuyện với anh, Hải nhớ về thời gian học trung học Cường Để, có rất nhiều bạn học của Hải lúc nào cũng bênh vực cộng sản. Trong số bạn thân của Hải lúc đó có Lưu, mê làm thơ và rồi được kể là Lưu bỏ nhà vào bưng theo Việt cộng, sau đó chết vì bom B52 trên đường Trường Sơn. Hải bùi ngùi đi lang thang với Chính và Mẫn, nghe kể về các bạn học thời xa xưa.
Hải lên xe đò, hướng về làng An Phước để tìm thăm Long, một bạn cùng quê và cùng tiểu đoàn, nhưng Long giải ngũ trước Hải một năm vì bị thương mất chân trái. Xe đò bị một nhóm du kích chận lại, và vì Hải mặc quần nhà binh nên du kích bịt mắt và trói tay, dẫn vào rừng; họ đã xem giấy tờ, biết rằng Hải là thương phế binh, đã giải ngũ ra khỏi quân đội VNCH. Hải bị đưa vào một căn cứ VC trong rừng già, người thẩm vấn Hải tên là Ba Năng. Y chú tâm, hỏi nhiều về thời gian Hải ở Pleiku, đưa cả xấp giấy buộc Hải tự khai. Hôm sau, thêm một huyện ủy viên tên Sáu Hoàng tới thẩm vấn Hải, đưa cả xấp giấy buộc Hải tự khai. Hải bị giam hơn mười ngày, giấy tự khai về những ngày trong quân ngũ VNCH đã viết cả hai trăm trang. Một cán bộ khác tới thẩm vấn. Hải thoáng nhìn, bất chợt nói, “Bác Quảng,” vì nhận ra người hàng xóm ở Chợ Mới Pleiku, từng có tin là chết vì tai nạn xe ở An Khê năm Hải học đệ ngũ. Nhưng cán bộ kia nói, hãy gọi ông ta là Tư Kiên. Hải nhớ rằng bác Quảng từng muốn tục huyền với mẹ của Hải, và bất chợt nhận ra rằng Ba Năng chính là thằng Trọng, con bác Quảng. Tư Kiên hỏi nhỏ Hải về sức khỏe mẹ Hải, và rồi nói là sẽ thu xếp thả Hải về, vì đã xuất ngũ khỏi “quân ngụy.” Và Hải được dẫn ra thả gần đường lộ lúc nửa khuya.
Cũng nên ghi rằng, truyện Lê Lạc Giao nơi này kể rằng khi Hải bị VC bắt, Long đã biết tin, nhưng không báo ra chi khu vì sợ nếu quân VNCH hành quân giải cứu thì Hải khó toàn mạng. Do vậy, Long chỉ nhờ người nhắn hai người bà con “trong phe bên kia” xin thả Hải giùm.
Cuộc chiến quốc/cộng quả nhiên là ở thế xôi đậu. Mà là nhiều loại đậu, xanh đỏ trắng vàng đen tím… mịt mờ sương khói.
Giới trẻ đời thường tại Sài Gòn suy nghĩ gì? Trong khi chúng ta biết rằng Miền Bắc tổng động viên toàn quốc, vơ vét từng sợi chỉ và hạt gạo đưa ra chiến trường, trong khi bắt lính ngay cả trong các thiếu niên còm cõi chưa tới tuổi thành niên, nhiều thành phần tại Sài Gòn vẫn sống buông thả, vui chơi...
Những hình ảnh trái nghịch nhau hiện ra ai cũng thấy. Trong truyện, nhà văn Lê Lạc Giao ghi lời của hai người bạn thân, lúc đó Quận nói với Phác: “Tao rất ghét đám trai gái hippies tụ tập mỗi cuối tuần ở trước rạp Rex và Eden. Chúng nó khiến tao kinh tởm khi nhớ đến những bạn bè của mình đang đánh nhau với việt cộng trên rừng. Tao có ba thằng bạn đều là sĩ quan nhảy dù. Một thằng đã chết, một thằng cụt chân và thằng còn lại đang chỉ huy một đại đội của tiểu đoàn 11, sống chết từng giờ với VC ở Dakto Tân Cảnh!”
Như thế, trong bầu không khí xôi đậu đa dạng như thế, truyện kể về một nhóm bạn Văn Khoa "đang đánh nhau với Việt cộng trên" các giảng đường đại học. Và cũng trong bầu không khí như thế, nhiều sinh viên trong khi còn đi học, tự thấy mặc cảm khi thấy bạn mình đã đi lính và ra chiến trường. Thí dụ, một cách mơ hồ, như Quận đang còn đi học, nhưng tự thấy có lỗi với các bạn ở chiến trường vì Quận tâm sự là “muốn đi lính hình như để trả nợ… Tao không muốn nói nôm na như nhiều người rằng trả nợ núi sông đấy nhé!” Nghĩa là, Quận không muốn sử dụng ngôn ngữ cực kỳ trang nghiêm như tổ quốc và núi sông, nhưng chỉ vì tự thấy ngồi học bình an trong sân trường là không phải lẽ với các bạn đang tác chiến. Đó cũng là lý do Quận bực dọc với Đại hội Nhạc Trẻ ở Thảo Cầm Viên của các tay hippies mà chàng gọi là không ổn và phản tuyên truyền.
Tác giả Lê Lạc Giao ưa sử dụng kỹ thuật đưa những hình ảnh trái nghịch cận kề nhau để làm hiển lộ các dị biệt trong xã hội. Cuộc chiến quốc-cộng trong thời sinh viên là dĩ nhiên, chạy xuyên suốt cả cuộc đời những người trong truyện. Kỹ thuật này dùng cho cả những dị biệt giữa các nhân vật. Thí dụ, như Hải, chàng Trung úy thương phế binh nguyên khởi đi lính vì người anh yêu thương bạc tóc từ thời rất trẻ và chết vì một bệnh ung thư lạ. Trong khi Quận muốn đi lính vì tự thấy sống bình yên ngoài đời lính là không phải lẽ. Hay hình ảnh mê thơ và ưa triết lý của Phác đặt kế bên để làm nổi bật hình ảnh võ biền và thẳng thắn của Quận, chàng sinh viên bị ông nội ép học võ từ năm mới lên tám, vì cụ là một cử nhân võ cuối cùng của triều nhà Nguyễn.
Nổi bật trong tiểu thuyết Lê Lạc Giao là ba tảng màu, có khi minh bạch tách biệt, có khi loang vào nhau: màu đỏ của những người cộng sản và thân cộng, màu vàng của những người chống cộng hoặc không ưa cộng sản, và một màu nhạt nhòa không minh bạch của những người đứng giữa hay chỉ biết vui chơi. Và rải rác trên các tảng màu chính đó, là các màu sắc khác của cuộc đời – những ngày học thi gian nan, và những mối tình như các sợi tóc giai nhân vương lại trên các dòng chữ trong truyện.
Trong một bức tranh nhiều màu sắc như thế, mối tình của Huyền và Phác hiện lên một cách trong sáng, và đồng thời rất mực gian nan. Huyền hơn Phác hai tuổi, học Dược khoa, hiểu là có một tương lai vững chắc trong xã hội; trong khi Phác học Văn khoa, hiểu là sẽ bất định, đặc biệt trong thời Tổng Động Viên sau trận đánh mùa hè Quảng Trị 1972. Thế rồi một hôm, Huyền đi taxi tới mời Phác ra quán café Hoàng Cầm trên đường Tú Xương, nơi ngày đầu tiên hai người uống café với nhau. Nơi đây, Huyền nói rằng hai người nên chia tay, vì “không hợp nhau.” Khi Phác chở Huyền về và thả xuống gần cổng nhà nàng, Huyền trong bóng tối “vươn người lên phía trước hôn Phác. Nụ hôn dường như cay đắng nhưng dứt khoát. Phác nghĩ, đấy là nụ hôn chia tay và cũng là nụ hôn vĩnh biệt.” Chỗ này cũng là lơ lửng để độc giả suy nghĩ… Có phải Huyền nói không hợp với Phác là vì Phác sẽ tới lúc nhập ngũ theo lệnh Tổng Động Viên, và do vậy tương lai đầy bất trắc? Hay phải chăng, không hợp vì Huyền sắp ra trường dược khoa và Phác sớm muộn gì cũng phải vào quân trường? Hay chỉ đơn giản vì Huyền hơn Phác hai tuổi?
Đêm đó, Phác về nhà Thịnh ngủ, rủ bạn khui chai Rhum Deoda ra uống, và trong cơn say nghe Thịnh báo tin rằng chính phủ điều chỉnh lệnh tổng động viên, nâng lên một tuổi… Nghĩa là, sẽ có thêm hàng loạt sinh viên từ giã sân trường để ra chiến trường. Lúc đó, trong cơn say, khi nằm xuống ngủ, Phác nghe tiếng đại bác ven đô vọng về…
Các sinh viên và gia đình xôn xao về tình hình mới. Tác giả Lê Lạc Giao viết: “…lệnh tổng động viên thêm một tuổi là một thực tế không thể phủ nhận được cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Người chết mỗi ngày nhiều hơn, và mùi chết chóc hình như bắt đầu hiện diện khắp nơi. Chị Ngân ngồi ở sa lon vừa đọc báo, thỉnh thoảng liếc nhìn Phác và mẹ đang nói chuyện.”
Ba tuần lễ sau, Phác và Phan nhập ngũ vì lệnh tăng tuổi Tổng Động Viên.
Kỹ thuật viết tiểu thuyết với phương pháp tỷ giảo của Lê Lạc Giao nơi đây lại đưa ra hai cái nhìn về cuộc chiến từ hai người bạn thân này.
Gia đình vốn gốc Bắc di cư, Phan trưởng thành ở Miền Nam và do ảnh hưởng từ bạn hữu nên không ưa cầm súng, tuy rằng phần lớn người công giáo di cư ưa nói, “Không ai hiểu cộng sản bằng chúng tôi… chúng tôi đã sống với cộng sản. Có kẻ từng cộng tác, thậm chí đồng chí với họ nhưng phải bỏ cả nhà cửa quê hương ra đi thì giải pháp cầm súng chiến đấu chống họ là điều tự nhiên: không những bảo vệ mình mà còn đánh đuổi những kẻ vô thần, chống chúa!”
Trong khi đó, Phác vẫn kiểu triết lý trên mây, xem cuộc chiến “chỉ là phần lập lại lịch sử dân tộc, có tính truyền thống… [trong khi] cuộc chiến ngày hôm nay, mang màu sắc ý thức hệ tất nhiên phải nằm trong vòng ảnh hưởng chiến lược của các cường quốc.”
Phan và Phác sau khi trình diện, được về phép, và hai người về Nha Trang thăm nhà. Đứng bên dòng Sông Cái ở Diên Khánh, những ký ức từ thời thơ ấu học chữ Nho tràn ngập trí nhớ Phác. Trong khi đó, Phan đi chơi với cô bé Jackie dọc bờ biển Nha Trang, và rồi Jackie tỏ tình với Phan, trao một nụ hôn đầu đời cho Phan. Chiến trường là cái gì rất gần Phan và Phác, trong khi tình yêu là trận gió mát làm dịu lòng người, nhưng nào ai giữ được gió trong tay. Jackie sang Pháp du học, trong khi Phan ra trường Bộ Binh Thủ Đức, tình nguyện vào Biệt Động Quân, và quyết định cắt đứt liên lạc với Jackie vì đời lính biết đâu ngày về. Phác được biệt phái vào làm công chức ở Phủ đầu rồng. Cuộc chiến không đơn giản, vì đây cũng là nội chiến, vì phía bên kia cũng là một số khuôn mặt bằng hữu, như Nghiên, như Kiệt… Cũng như đối với chàng thương phế binh Hải, phía bên kia cũng là bác Quảng, là Ba Năng, là em Nghĩa… Nhìn đâu cũng thấy ta và địch, trong sân trường đại học cho tới chiến trường nơi núi rừng.
Trong đêm cuối Phan và Phác ở Nha Trang, trước khi về lại quân trường Thủ Đức, tác giả Lê Lạc Giao viết về hai chàng xếp bút nghiên này: “Phan và Phác lúc ấy không nói thêm lời nào. Bầu trời đêm cuối cùng tại Nha Trang như quấn chặt hai người. Mỗi người một thế giới riêng nhưng lại có điều chung nhất: nỗi đau tuổi trẻ, sự mất mát và đổ vỡ của cả một thế hệ. Họ chính là đại biểu của loài chim ước mơ đem tiếng hót làm niềm vui cuộc đời, nhưng kết quả cũng chỉ là loài quạ đen hay kên kên đói khát trên cánh đồng ngập tràn xác chết đồng loại.”
Tác giả Lê Lạc Giao cũng nêu bật lên những ngăn cách thế hệ trong suy nghĩ về cuộc chiến. Tuổi trẻ, tất nhiên suy nghĩ khác với thế hệ ba mẹ. Huống gì là cuộc chiến này tuy là quốc-cộng phân tranh, nhưng dưới mắt của rất nhiều người lại không có gì minh bạch như giữa trắng với đen. Thí dụ, trường hợp của Thành, một bạn học cùng trường và ở một lớp trên Phác, Phan và Hải. Thành sau khi thi rớt Tú Tài 2, tình nguyện đi Trường Sĩ Quan Thủ Đức.
Lê Lạc Giao ghi lại nỗi lo lắng của ba mẹ Thành, một sĩ quan binh chủng Nhảy Dù: “Nhớ lần về phép đầu tiên với gia đình, cha của Thành chỉ trầm ngâm nhìn anh không nói gì trong khi mẹ anh bắt anh đến bàn thờ tổ tiên thắp hương lạy ông bà. Những ngày kế tiếp Thành chỉ thấy mẹ ngồi với mình lại rơm rớm nước mắt thế nên về sau, Thành rất e ngại về thăm cha mẹ khi được nghỉ phép.”
Kỹ thuật viết tiểu thuyết của tác giả nơi đây cũng đặt ở một vài chữ, nhưng làm nổi bật lên cả những khối mây bay cuồn cuộn phương trời. Hình ảnh người cha “trầm ngâm nhìn anh không nói gì” trong khi mẹ “bắt anh đến bàn thờ tổ tiên thắp hương lạy ông bà.” Chữ của tác giả rất kiệm lời. Nhưng khi tác giả lặng lẽ đưa ra hình ảnh đối chiếu giữa cách cha và mẹ đối với chàng sĩ quan nhảy dù tên Thành, cuộc nội chiến Việt Nam đã được nâng lên đặt một nơi thiêng liêng ở bàn thờ tổ tiên, nơi đó người con nối dõi tông đường biết sau này còn nhiều dịp để thắp hương hay không.
Tiểu thuyết đi tới những chỗ kỳ bí như phim trinh thám khi bác Chung, một đại tá an ninh ở Quân Đoàn 2 và là bạn của cha Phác, tới thăm Phác khi chàng về phép ở Pleiku và nhờ cầm một phong bì vàng vào Sài Gòn trao cho một người tên Năm Khương, ngồi bán ở một kiosk màu xanh dương.
Một số nhân vật xuất hiện từ đây. Trong đó có những người thân với phía bên kia, thí dụ như người sinh viên được một số bạn Văn Khoa gọi là Đôi Nạng Xứ Dừa… Cùng khóa sĩ quan Thủ Đức với Phác có Hưng, học bên Ban Sử Địa trước khi vào quân trường. Tác giả Lê Lạc Giao để riêng Chương Người Bạn Bên Kia viết về Hưng. Hưng xuất thân từ Mỹ Tho, cả nhà đều là cán bộ cộng sản. Cha Hưng là một chỉ huy du kích liên tỉnh Bến Tre-Vĩnh Bình, tử trận trong trận Mậu Thân ở Vũng Liêm. Lúc đó Hưng được giao liên dẫn vào Vũng Liêm dự đám tang cha trong rừng. Hưng đóng vai học sinh lên Sài Gòn để vào đại học, nhưng cũng là để hoạt động, và rồi kết thân với chàng sinh viên Đôi Nạng Xứ Dừa vì tự nhiên cùng kiểu suy nghĩ chống Mỹ. Hưng được móc nối lại để vào một chi bộ bốn người ở Đại Học Văn Khoa, trực tiếp chỉ huy Hưng là cô nữ sinh viên có tên là Tố.