1. Khổng giáo không những cổ võ việc lật đổ chính quyền khi chính quyền tồi tệ, tàn ác mà còn coi đó là bổn phận người dân: Khổng giáo, do Khổng tử (551-479 TCN) khởi xướng và được phát huy rộng rãi qua những người học trò sau này, nổi tiếng nhất là Mạnh tử (372-289 TCN), có ảnh hưởng mạnh mẽ tại Tàu và các quốc gia lân cận như Đại Hàn, Nhật, và Việt Nam. Khổng giáo chú trọng vào những đức tính và nghĩa vụ con người trong xã hội, nhưng cũng nhấn mạnh các đức tính con người trong chính quyền và bổn phận người dân trong một quốc gia.
Sách Luận Ngữ (Analects) ghi những lời dạy hoặc đối đáp của Khổng tử được ghi chép bởi học trò ông. Sách Luận Ngữ rất thịnh hành và được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Xem, thí dụ như, Confucius 2008 trong danh sách các tài liệu tham khảo ở cuối bài này.
Khổng tử có nhiều lời dạy dỗ về chính quyền và nghĩa vụ giữa chính quyền và người dân. Khổng tử nói, "Đặt người ngay thẳng lên trên những kẻ bất lương thì dân nghe lời. Đặt kẻ bất lương lên trên người ngay thẳng thì dân không nghe lời" (Luận Ngữ, II.19). Khổng tử dạy rằng trong ba việc trong việc trị nước: quân đội, thực phẩm, và niềm tin của dân thì niềm tin của dân không thể bỏ được và nếu phải bỏ một trong ba thì quân đội có thể bỏ, sau đó là thực phẩm (Luận Ngữ, XII.7). Điều đó cho thấy niềm tin của dân vào chính quyền quan trọng hơn cả việc sinh sống của dân và việc quân lực bảo vệ đất nước. Đó là vì một khi có niềm tin của dân, việc gì làm cũng được.
Về chính quyền, Khổng tử dạy người nắm quyền phải ngay thẳng lương thiện (Luận Ngữ, XII.17). Khi được hỏi làm cách nào đối phó với trộm cướp, Khổng tử trả lời, "Nếu [người nắm quyền] không có lòng tham, thì sẽ không có ai trộm cắp cho dù được thưởng" (Luận Ngữ, XII.18). Quý Khang tử hỏi Khổng tử về phép trị dân, "Tôi có nên giết những kẻ vô đạo để cho người khác thành lương thiện được không?" Khổng tử trả lời, "Ông trị dân thì giết người để làm chi? Nếu ông muốn việc thiện, thì dân sẽ thiện. Tính chất của người quân tử như gió, tính chất của người dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống" (Luận Ngữ, XII.19).
Theo Khổng Tử, những người tham gia chính quyền cần phải có 5 điểm tốt và không có 4 điểm xấu (Luận Ngữ, XX.2). Năm điểm tốt là: (1) không phí phạm nhưng rộng rãi giúp dân, (2) khiến dân làm việc khó nhọc mà dân không oán, (3) có lòng muốn nhưng không tham lam, (4) thư thái mà không kiêu căng, và (5) uy nghiêm mà không gây khiếp sợ. Bốn điểm xấu là: (1) không giáo hóa dân mà đặt tử hình là tàn ác, (2) muốn làm xong việc mà không báo trước là hung bạo, (3) nhất quyết có thời hạn mà chậm trễ đưa ra lệnh là đàn áp; và (4) bủn xỉn cho dân là nhỏ nhen.
Ta thấy ngay NCQCS tại Việt Nam hoàn toàn đi ngược lại các điểm trên: không có 5 điểm tốt và có đầy đủ 4 điểm xấu, và còn nhiều điểm xấu hơn thế nữa. Vài thí dụ cho thấy. Vụ Formosa Hà Tĩnh vừa phí phạm vừa không rộng rãi giúp dân. Bắt dân đóng trạm lệ phí khiến dân ta thán. Tham nhũng thâm lạm công quỹ. Cậy quyền phách lối coi thường dân. Công an cảnh sát đánh đập dân. Giở trò hung bạo với dân, bắt bớ dân biểu tình ôn hòa khiến dân khinh thường. Không chấn chỉnh ngành giáo dục. Dung dưỡng những kẻ phạm tội. Đưa ra các luật lệ kiểm soát dân như luật an ninh mạng. Cướp đất dân và bồi hoàn thiếu công bằng.
Đương nhiên, không có một chính quyền nào hoàn hảo, và giá trị của một chính quyền thường có tính cách tương đối. Nhưng dựa vào giá trị tương đối, những chính quyền tự do dân chủ trên thế giới vượt xa NCQCS trên đủ mọi phương diện.
Ngoài ra, những người đứng ngoài chính trường Tàu cộng thường diễn giải sai lầm rằng triết lý Khổng giáo chú trọng lễ nghi và lòng trung với vua, hiếu với cha mẹ, giúp cho việc chính phủ Tàu cộng đàn áp dân. Thực ra, triết lý Khổng giáo, tuy cổ võ lòng hiếu thảo con cái với cha mẹ trong gia đình và lòng trung thành với vua chúa, coi trọng những đức tính hơn sự vâng lời (Mattis 2012). Khổng tử từng nói, "Đối diện với sai quấy, bổn phận người con là chống lại cha mình, và bổn phận người làm việc là chống lại chủ mình" (Ching 1908, 29; Liu 2016; Mattis 2012; Shih 1946, 224).
Khổng tử giải thích lý do tại sao người con nên chống lại cha nếu cha mình sai lầm: "Nếu một người cha có con chống lại lệnh sai quấy của mình, ông ta sẽ thoát được làm lỗi nặng" (Ching 1908, 29). Do đó, việc người con chống lại cha mình khi cha mình sai quấy thể hiện lòng hiếu đễ cao quý, và không phải là đứa con bất hiếu hỗn hào, mà vì để bảo vệ gia đình. Khổng tử răn dậy con người không được mù quáng tuân theo mệnh lệnh, cho dù trong gia đình với cha mẹ hoặc ngoài xã hội với cấp trên hay chính quyền, mà phải biết suy nghĩ coi cứu cánh của gia đình, xã hội, và quốc gia quan trọng hơn cha mẹ, cấp trên, và chính quyền, theo thứ tự đó.
NCQCS thường tự cho mình sáng suốt và khinh thường người dân, coi dân có trí tuệ hoặc kiến thức thấp kém, dễ bị thế lực thù địch xúi giục, và nhận tiền từ các tổ chức thù địch trong những cuộc biểu tình. Theo NCQCS, luật lệ và việc thi hành luật lệ của họ luôn luôn đúng, và vì vậy họ có quyền bắt bớ, giam cầm người dân với những điều luật mơ hồ, dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia. Ta thấy ngay thái độ khinh thường người dân của NCQCS đi ngược lại giáo huấn của Khổng tử. Khổng tử không dám coi thường người con, và còn cho phép con cái nhận ra sự sai lầm của cha mẹ mình, và không những đồng ý việc người con chống lại cha mình hoặc bề tôi chống lại chủ mình, mà còn coi việc đó là một bổn phận. Khổng tử vạch ra rằng những kẻ cầm quyền độc tài còn nguy hiểm hơn cọp ăn thịt người (Mattis 2012) sau khi nghe một người phụ nữ, có chồng và con bị cọp ăn thịt, nói rằng không muốn rời chỗ ở chỉ vì nơi bà ở không có kẻ cai trị độc tài (Astiadi 2014).
Lễ, một đức tính quan trọng trong Khổng giáo, chú trọng đến lễ nghi, nhưng cũng liên quan đến những hành vi của mỗi người tùy vào vai trò hoặc địa vị mình (Ginsburg vnk. (và người khác) 2013, 1196). Dựa vào ý nghĩa rộng rãi của Lễ, Mạnh tử cổ võ lý thuyết Thiên Mệnh trong việc thành lập vua cai trị đất nước (tlđd., 1196; Wikipedia 2018a). Nếu vua không có Lễ, Thiên Mệnh của ông ta sẽ bị tước đi và giao lại cho người khác. Nhiều học giả tin rằng khái niệm về Thiên Mệnh của Mạnh tử là nền tảng của quyền nổi dậy (Ginsburg vnk. 2013, 1197).
Mạnh tử còn dạy rõ rệt hơn về bổn phận người dân chống đối chính quyền tà ác. Mạnh tử nói với Tề Tuyên Vương (King Xuan of Qi): "Khi vua đối xử với bầy tôi như cỏ rác, thì bầy tôi phải đối xử với vua là quân cướp và kẻ thù" (Liu 2016; Shih 1946, 224; Mattis 2012; Van Norden 2008, 104). Hu Shih (Hồ Quát/Hồ Thích), một học giả Tàu nổi tiếng, diễn giải câu của Mạnh tử như sau: "Bất cứ kẻ cai trị nào vi phạm những nguyên tắc nhân từ và chính đáng hiền lương thì không còn là người cai trị nữa, mà là kẻ cướp và sát nhân mà người dân có bổn phận lật đổ và giết" (Shih 1946, 224; Eglauer 2008, 162). Câu chuyện về việc giết chết Trụ Vương sau đây giải thích rõ quan điểm này.
Trong cuộc đối thoại với Mạnh tử, Tề Tuyên Vương hỏi, "Có đúng là khi họ là bề tôi, Thang đuổi vua Kiệt và Võ Vương đánh vua Trụ?" Mạnh tử trả lời, "Sử sách có viết vậy." Tề Tuyên Vương hỏi, "Bề tôi giết vua được không?" Mạnh tử đáp, "Kẻ hại người nhân đức thì gọi là 'tặc.' Kẻ hại người chính đáng hiền lương thì gọi là 'ác.' Tặc và ác chỉ lả người thường mà thôi. Tôi chỉ nghe quả thật có việc giết người thường tên Trụ, nhưng chưa nghe việc ám sát vua" (Van Norden 2008, 26; Book 1B8). Mạnh tử có ý nói rằng vua Trụ tàn ác nên không đáng là vua mà chỉ là người dân thường. Do đó việc giết vua Trụ chỉ là việc giết một kẻ thường dân tàn ác tên là Trụ, chứ không phải giết vua. Câu này được coi là nền tảng của "quyền cách mạng" (right of revolution) (Nosco 2008, 31) trình bày sau.
Mạnh tử khẳng định quyền, hoặc bổn phận, lật đổ chính quyền, hay truất phế vua trong cuộc nói chuyện khác với Tề Tuyên Vương. Mạnh tử nói, "Nếu vua có lỗi lớn thì can gián. Nếu vua phạm lỗi lớn nhiều lần và không nghe lời can gián, thì [quan khanh có họ hàng với vua] phải truất phế vua" (Van Norden 2008, 142; Book 5B9). Tuy Mạnh tử chỉ đề cập quan khanh có họ hàng với vua có thể truất phế vua, ta phải hiểu người dân có quyền đó theo lý thuyết về Thiên Mệnh.
Người dân Việt đã can gián NCQCS lần nào chưa? Biết bao nhiêu lời kêu gọi, biết bao nhiêu kiến nghị, hàng trăm hàng ngàn chữ ký gửi đến NCQCS. Tất cả đều bị vất vào sọt rác. Điều 4 Hiến pháp vẫn giữ nguyên. Các luật lệ mơ hồ, điều 79, 87, 88, 245, 258 của Bộ luật hình sự vẫn được áp dụng còn nhiều hơn trước. Sách nhiễu, giam cầm, bắt bớ, đánh đập, truy tố, thu giữ tài sản, xâm phạm tài sản và cuộc sống riêng tư, xâm phạm nhân quyền người dân vẫn xảy ra thường lệ.
2. Đạo giáo khuyến khích người dân tham gia chính trị và cảnh cáo chính quyền dùng bạo lực với dân: Đạo giáo (Taoism/ Dàoism), còn được gọi là Lão giáo, là một triết lý và còn được coi là tôn giáo, có từ khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Đạo giáo có nhiều nhánh do nhiều người chủ xướng qua nhiều bộ sách thực hiện trong các thời đại khác nhau. Chính yếu là Đạo giáo cổ điển, thành lập trong thời Xuân Thu (770 - 476 TCN) và Chiến Quốc (475 - 221 TCN). Đạo giáo đầu tiên do Lão tử (Laozi, Lao-Tzu), thành lập, viết quyển Đạo đức kinh (Tao Te Ching), thường được coi là viết vào thời Xuân Thu, đề cập đến chính quyền và xã hội. Sau này vào thời Chiến Quốc, Trang tử (Chuang-tzu) và Liệt tử (Lieh-tzu) sửa đổi, không còn dính líu gì đến chính quyền hoặc hoạt động xã hội (Wong 1997, 221-229).
Trong Đạo giáo, khái niệm "vô vi" (wu wei) rất quan trọng, và có ý nghĩa khác nhau tùy theo nhánh Đạo giáo nào (Wong 1997, 24-25). Cái chân lý trong Đạo gíáo theo Đạo đức kinh về "vô vi" không phải là không làm gì cả. "Vô vi trong Đạo đức kinh là 'đi theo những nguyên tắc của Đạo,' và con đường của Đạo là con đường nhân đức" (Wong 1997, 25). "Trong Đạo đức kinh, vô vi có nghĩa là không dùng lực." Khác hẳn với việc không làm gì cả, bậc thánh hiền Đạo giáo là thành phần năng động trong xã hội và có khả năng là người trị vì (tlđd.). "Thông điệp trong Đạo giáo là: Trau dồi những phẩm chất tinh thần và vật chất của bậc thánh hiền; tham gia và giúp đỡ xã hội một cách không xâm phạm ai; về hưu khi công việc xong xuôi" (tlđd.). Với ý nghĩa đó, Đạo giáo khuyến khích mọi người tham gia chính trị hoặc công việc xã hội mà không đụng chạm đến ai, nhưng phải làm cho đến cùng, đạt được mục tiêu rồi mới được phủi tay hưởng nhàn.
Vô vi có ý nghĩa không làm quá nhiều, mà hãy để mọi việc tự nhiên tự sắp xếp. Đạo giáo khuyến khích tham gia chính trị, chủ động phong trào, nhưng phải đi theo luật thiên nhiên và đừng tạo quá nhiều quy tắc, luật lệ. "Nếu bạn muốn làm lãnh tụ, bạn phải học cách theo con đường Đạo. Đừng kiểm soát dân. Bỏ những chương trình và các khái niệm cố định, và thế giới sẽ tự cai trị" (Hankins 2014).
Đạo giáo (trong Đạo đức kinh) chỉ trích những chính quyền có chính sách điều khiển dân, đặt nặng pháp trị, tạo ra cả một rừng luật. "Chính quyền càng có nhiều cấm cản, người dân càng trở nên tội lỗi. Chính quyền càng có nhiều võ khí, người dân càng bị bất an. Chính quyền càng trợ cấp, người dân càng trở nên kém tự túc tự cường" (tlđd.). Chính quyền không nên xoi mói, xâm phạm cuộc sống con người (thí dụ hạn chế tự do đi lại hoặc tự do ngôn luận), vì càng xâm phạm, người dân càng mất ý chí tinh thần; càng nghi ngờ, người dân càng trở nên không tin cậy. Đạo giáo chủ trương một chính quyền giản dị, không can thiệp vào đời sống dân. Dạo giáo dạy chính quyền không dùng bạo lực "vì lực nào cũng có lực chống lại" và "bạo lực, dù có ý tốt, luôn luôn có phản ứng lên chính nó" (tlđd.).
Một cách kỳ lạ, Đạo giáo, viết cách đây hơn hai ngàn năm, chỉ trích chính quyền xấu xa giống y hệt như tổ chức của NCQCS và ĐCSVN hiện nay về rừng luật, cấm cản dân, nghi ngờ dân, xâm phạm cuộc sống dân, dùng bạo lực với dân. Những luật lệ mơ hồ bắt bớ giam cầm dân dựa vào an ninh quốc gia, luật an ninh mạng là những cấm cản mà Đạo giáo lên án.
Ngoài ra, Đạo giáo cảnh cáo rằng khi chính quyền dùng bạo lực với dân, họ sẽ bị phản ứng lại, nhiều khi còn mạnh bạo hơn. Đạo giáo khuyến khích dân tham gia chính trị, miễn là đừng xúc phạm ai. Điều này có nghĩa là đừng chủ động xúc phạm ai, nhưng nếu chính quyền xúc phạm dân thì dân có quyền xúc phạm lại, "vì lực nào cũng có lực chống lại" và "bạo lực, dù có ý tốt, luôn luôn có phản ứng lên chính nó" (tlđd.). Chân lý này, khi áp dụng vào cuộc đấu tranh hiện nay tại Việt Nam sẽ giúp người dân tìm ra nhiều phương thức đấu tranh, bạo động hay bất bạo động, hay cả hai.
3. Triết lý Hy Lạp xác định chế độ độc tài là chế độ tệ mạt nhất và khõng thể tồn tại: Các triết gia Hy Lạp để lại nhiều tài liệu về những tư tưởng triết lý về con người, đạo đức, đức tính, xã hội, và chính trị. Ba triết gia cột trụ Hy Lạp là Socrates, Plato, và Aristotle.
Socrates (470 - 399 TCN) được coi là người sáng lập nền triết học Tây phương, nhất là về các học thuyết đạo đức, luân lý, và tư tưởng. Plato (428/427 hoặc 424/423 - 348/347 TCN), học trò của Socrates, cùng với học trò ông là Aristotle (384 - 322 TCN), đặt nền tảng cho tư tưởng Tây phương về triết học và khoa học. Theo Plato thuật lại lời của Socrates (Reeve 2004, 238-296; Wikipedia 2018b), có 5 chế độ chính quyền theo thứ tự từ tốt nhất tới tệ nhất: quý tộc (aristocracy), tài quyền (timocracy), phú tộc (oligarchy), dân chủ (democracy), và độc tài (tyranny). Chúng ta nên ghi chú rằng chế độ dân chủ thời bấy giờ tại Athens khác xa với chế độ dân chủ hiện nay (thí dụ, không có cơ chế tam quyền phân lập).
Chế độ độc tài (Socrates dùng người khi nói đến chế độ, thí dụ "kẻ dân chủ," "kẻ độc tài") làm nhiều việc hiểm độc, từ việc nhỏ như "ăn cắp, đột nhập nhà, giật ví bị, cướp áo quần thiên hạ, cướp đền thờ, và dẫn người ta làm nô lệ" (Bloom 2016, 255) cho đến việc lớn như "thanh trừng tổ quốc, đem những đồng chí mới vào nước... và tổ quốc sẽ thành nô lệ cho những đồng chí mới này" (tlđd., 256). Socrates mô tả những kẻ độc tài là "những người sống cả đời mà không hề có bạn với ai, mà chỉ luôn luôn là chủ người này hoặc đầy tớ người khác. Bản chất độc tài không bao giờ nếm được tự do hoặc tình bằng hữu thực sự" (tlđd.). Một cách kỳ lạ, lời của Socrates cách đây hơn hai ngàn năm ứng nghiệm y hệt với chế độ cộng sản tại Việt Nam, từ việc cướp bóc dân cho tới việc đem Tàu cộng vào nước, và làm đầy tớ Tàu cộng.
Aristotle có cùng quan điểm với Socrates và Plato về các thể chế tuy có vài chi tiết khác biệt. Theo Aristotle, chế độ độc tài bị hủy diệt dưới hai thể thức: bên ngoài và bên trong. Chế độ độc tài bị hủy diệt từ bên ngoài khi bị một thể chế đối nghịch, thí dụ quý tộc hay tài quyền, mạnh mẽ hơn lật đổ. Chế độ độc tài bị hủy diệt từ bên trong khi những kẻ chia quyền rơi vào mâu thuẫn phe phái (Lord 2013, 159). Cách mạng cũng lật đổ chế độ độc tài khi người dân hợp lực với những lãnh tụ có tiếng tăm (tlđd., 138).
Một số các chế độ do các triết gia Hy Lạp mô tả không còn hiện hữu hoặc biến hóa vì xã hội thay đổi và nền văn minh phát triển. Tuy nhiên, chế độ độc tài vẫn còn hiện hữu. Thể chế độc tài thời ấy cũng giống như thời nay là quyền lực nằm trong một nhóm người; điển hình là chế độ cộng sản tại Việt Nam hiện nay. Điểm quan trọng trong ý tưởng chính trị của các triết gia Hy Lạp là thể chế độc tài là thể chế tệ hại nhất và người dân, tuy yếu đuối không có vũ khí, vẫn hợp nhau lại để lật đổ chế độ độc tài.
4. Triết lý Âu châu và Hoa Kỳ cổ võ quyền chống đối, quyền nổi dậy, và quyền cách mạng: Quyển chống đối chính phủ (right to resist), đôi khi còn được gọi là quyền nổi dậy (right to rebellion), và quyền cách mạng (right to revolution), là quyền người dân nổi lên lật đổ chính quyền đương nhiệm, bằng vũ lực hay ôn hòa khi chính quyền đương nhiệm không thi hành được nhiệm vụ mà người dân giao phó. Đây không phải là quyền biểu tình thực thi quyền tự do ngôn luận, hoặc bất tuân dân sự, hoặc thuần túy quyền dùng lá phiếu trong thể thức bầu cử tại các thế chế dân chủ, mà là quyền thực sự lật đổ chính phủ (Ginsburg vnk. 2013; Wikipedia 2018a).
Tại Âu châu, khái niệm về quyền lật đổ được phát triển qua nhiều thế kỷ. Thomas Aquinas (1225 - 1274) cho rằng việc lật đổ một chính quyền độc tài không phải là sự nổi loạn (Ginsburg et. al. 2013, 1200). John Locke (1632 - 1704) tin rằng "cơ chế chính yếu thi hành khế ước xã hội là quyền tập thể của người dân nổi lên chống lại chính quyền nếu chính quyền vi phạm những điều kiện của khế ước đó" (tlđd., 1202; Levin 2012, 102; Locke 2002, iii). Locke còn đi xa hơn, cho rằng nổi dậy không phải chỉ là quyền mà còn là bổn phận của người dân để ngăn ngừa chế độ độc tài (Ginsburg vnk. 2013, 1202; Wikipedia 2018a). Locke thực sự chủ trương "tối đa hóa cuộc cách mạng bằng bạo lực" (Carolina Journal 2013). Charles de Montesquieu (1689-1755) cổ võ tam quyền phân lập với ba ngành lập pháp, hành pháp, và tư pháp, Ba quyền lực này phải được tách rời trong ba ngành khác nhau để tránh việc cả ba nằm dưới quyền một định chế (Levin 2012, 139). Montesquieu cảnh cáo chính quyền không nên tìm cách áp đặt chống lại ý dân, vì đó là độc tài bằng lập pháp và chính quyền không nên kiểm soát hoặc can thiệp vào mọi việc (tlđd., 135-136). Ta thấy ngay NCQCS hoàn toàn đi ngược lại với cơ cấu này khi họ tập trung ba cơ quan lập pháp, hành pháp, và tư pháp dưới sự kiểm soát của ĐCSVN và tung ra hàng ngàn luật lệ xâm phạm người dân.
Quyền nổi dậy và quyền cách mạng lan tràn khắp thế giới qua những cách mạng lật đổ chính quyền hoặc thể chế độc tài. Không phải cuộc cách mạng hay nổi dậy thành công nào cũng có chánh nghĩa. Có những cuộc cách mạng hay nổi dậy lật đổ chế độ cũ chỉ để thay thế bằng một chế độ còn tàn bạo, độc tài, và tham nhũng hơn. Các thí dụ điển hình là cách mạng Nga năm 1917, cách mạng Đức Quốc Xã năm 1933, cách mạnh Phát xít tại Ý năm 1922, và cách mạng đế quốc Meiji tại Nhật năm 1868. Tôi sẽ không thảo luận thêm về các cuộc cách mạng này một phần vì các chế độ thành lập do cách mạng đã bị sụp đổ hoặc không được phát triển. (Cuộc nổi dậy của cộng sản Việt nam không được gọi là cách mạng vì chỉ là một việc cướp chính quyền với may mắn bất ngờ tại miền Bắc năm 1945 và chiếm đóng miền Nam dưới sự yểm trợ và đỡ đầu của Nga Tàu năm 1975.)
Khai triển trên học thuyết về "quyền cách mạng" của Locke, trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson coi việc nổi dậy chống lại chế độ độc tài của Vua George không những là một quyền mà còn là một bổn phận (Ginsburg vnk. 2013, 1203; Levin 2012, 107-114). Dựa vào lý thuyết về tam quyền phân lập của Montesquieu, Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra vào năm 1787 khởi đầu với hàng chữ "We the People" nhấn mạnh vai trò người dân trong quốc gia. Tuy Hiến pháp Hoa Kỳ không ghi rõ rệt quyền cách mạng, "[c]ho tới nay, nhiều hiến pháp tiểu bang Hoa Kỳ cho phép dân hủy bỏ chính quyền" (tlđd., 1204-1205). Bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Công Dân của cách mạng Pháp năm 1789 ghi rõ việc chống đối đàn áp là quyền tự nhiên, cùng với các quyền về tự do, tài sản, và an toàn (Wikipedia 2018a).
Hiện nay, trên thế giới, khoảng 20% quốc gia có hiến pháp cho phép quyền chống đối. Đa số các quốc gia này ở Nam Mỹ, Trung Mỹ, Phi Châu, và vài quốc gia Âu châu (Tiệp Khắc, Pháp, Đức, Bổ Đáo Nha, Slovakia) (Ginsburg vnk. 2013, 1217-1220). Có nhiều lý thuyết về lý do tại sao một thể chế chấp nhận quyền chống đối hoặc lật đổ trong hiến pháp (tlđd., 1221 - 1228).
Quyền chống đối, quyền nổi dậy, và quyền cách mạng cho phép người dân đứng lên lật đổ chính quyền đương nhiệm khi chính quyền này không thi hành đúng nhiệm vụ trong việc thỏa mãn nguyện vọng của dân và cáng đáng trách nhiệm bảo tồn nền độc lập quốc gia và giữ gìn đất nước không bị rơi vào tay ngoại bang, cho dù một tấc đất.
C. Kết Luận: Trái ngược với những với những thành kiến và lời lẽ mị dân của chính quyền về tôn giáo và triết lý, hầu hết các giảng dạy và lý thuyết tôn giáo và triết học về chính trị, cổ điển và hiện đại, khắp nơi trên thế giới, đều khuyến khích và cổ võ, trực tiếp hay gián tiếp, việc người dân tham gia chính trị, phong trào hay cuộc đấu tranh chống đối hay lật đổ chính quyền khi chính quyền đi ngược nguyện vọng người dân và đàn áp người dân khi họ biểu tình bày tỏ ý kiến và đòi hỏi. Việc hiểu biết rõ rệt về các lý thuyết tôn giáo và triết học sẽ thiết lập một niềm tin vững vàng và ý thức được chính nghĩa và cần thiết của việc tham gia vào các hoạt động đấu tranh như biểu tình, đình công, và bãi khóa.
Đã đến lúc dân Việt và tuổi trẻ đứng lên tích cực tham gia những hoạt động chính trị và xã hội. Không cần biết cách thức hoạt động là bạo động hay bất bạo động, dân Việt phải dứt khoát quyết định dấn thân vào cuộc đấu tranh, chống đối những bất công, những luật lệ tàn ác, vi phạm nhân quyền, và các kế hoạch âm mưu cho việc bán nước dâng đất cho Tàu cộng.
Có người cho rằng một cuộc đấu tranh, để đạt thành công, cần phải có tổ chức và có một nhóm lãnh đạo hay một lãnh tụ. Đúng, việc tổ chức cho cuộc đấu tranh rất quan trọng, nhưng không tối cần thiết trong giai đoạn này. Khi niềm tin và ý chí đấu tranh bùng lên mãnh liệt, sẽ có những sự việc hoặc nhân vật nổi lên bất ngờ, theo mô hình Hệ thống thích ứng phức tạp (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014). Ngoài ra, với niềm tin mạnh mẽ hun đúc bằng những ý nghĩa chính đáng về tôn giáo và triết học trình bày trong bài này, người dân Việt không cần vị lãnh tụ nào thêm vì ít nhất họ có một trong hai vị lãnh tụ có quyền lực tối cao trên trái đất lúc nào cũng ở sát bên cạnh họ.
Đó là Đức Chúa Giê-su và Đức Phật Thích Ca.
© 2018 Cao-Đắc Tuấn
Tài Liệu Tham Khảo:
__________________
tlđd.: "tài liệu đã dẫn," thay cho "sđd." (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.
vnk.: "và người khác" dùng khi không muốn liệt kê hết tất cả tác giả vì quá dài. Lấy từ "et. al." là viết tắt của "et alia" (số nhiều trung tính), "et alii" (số nhiều nam), hoặc "et aliae" (số nhiều nữ), có nghĩa là "và người khác."
Bloom, Allan. 2016. The Republic of Plato (with a new introduction by Adam Kirsch). Basic Books. New York, NY., U.S.A.
Borg, Marcus J. 2008. Jesus - Uncovering the Life, Teachings, and Relevance of a Religious Revolutionary. HarperOne, New York, NY. U.S.A.
Ching, Hsiao. 1908. (Translated by Ivan Chen). The Book of Filial Duty. John Murray. London, U.K.
Confucius. 2008. Raymond Dawson (dịch và ghi chú). The Analects. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.
Copan, Paul. 2011. Is God a Moral Monster? Making sense of the Old Testament God. Baker Books. Grand Rapids, MI., U.S.A.
Dalai Lama, The. 1990. Freedom in Exile. The Autobiography of the Dalai Lama. HarperCollins, Paperback edition. New York, NY., U.S.A.
Dalai Lama, The. 1998. Laurence Freeman (giới thiệu và Bối Cảnh Ki-tô giáo), Thupten Jinpa (dịch và ghi chú), Robert Kiely (Biên tập và Lời Nói Đầu). The Good Heart. A Buddhist Perspective on the Teachings of Jesus. Wisdom Publications. Somerville, MA., U.S.A.
Dalai Lama, His Holiness The và Carrière, Jean-Claude. 2001. Violence & Compassion - Dialogues on Life Today. Image Books, Doubleday, New York, NY., U.S.A..
Dalai Lama, His Holiness The và Chodron, Thubten. 2017. Approaching the Buddhist Path. Wisdom Publications. Somerville, MA., U.S.A.
Deshung Rinpoche. 2003. Translated by Jared Rhoton. The Three Levels of Spiritual Perception - A Commentary on The Three Visions. Wisdom Publications. Somerville, MA., U.S.A.
Eglauer, Martina. 2008. The Mencius in the Writing of Hu Shi, trong "The Book of Mencius and its Reception in China and beyond," Chun-Chieh Huang, Gregor Paul, và Heiber Roetz (Eds.). Harrassowitz Verlag. Germany.
Friesen, Philip E. 2010. The Old Testament Roots of Nonviolence. Abraham’s Personal Faith, Moses’ Social Vision, Jesus’ Fulfillment, and God’s Work Today. Wipf & Stock. Eugene, OR., U.S.A.
Hendricks, Obery M. 2006. The Politics of Jesus. Three Leaves Press. New York, NY. U.S.A.
Horsley, Richard A. 2005. "By the Finger of God": Jesus and Imperial Violence, trong "Violence in the New Testament," Shelley Matthews và E. Leigh Gibson Eds. T & T Clark International, New York, NY., U.S.A.
Lamb, David T. 2011. God Behaving Badly. Is the God of the Old Testament Angry, Sexist and Racist? InterVarsity Press. Downers Grove, IL., U.S.A.
Levin, Mark R. 2012. Ameritopia. The Unmaking of America. Threshold Editions. New York, NY., U.S.A.
Lewis, C.S. 2001. The Weight of Glory. HarperOne. New York, NY. U.S.A.
Locke, John. 2002. The Second Treatise of Government & A Letter Concerning Toleration. Dover Thrift Editions, New York, NY., U.S.A.
Lord, Carnes (Translated with introduction, notes). 2013. Aristotle's Politics. Second edition. The University of Chicago Press. Chicago, IL., U.S.A.
McLeod, Melvin (Ed.). 2006. Mindful Politics. A Buddhist Guide to Making the World a Better Place. Wisdom Publications. Somerville, MA., U.S.A.
Nosco, Peter. 2008. Confucian perspectives on civil society and government, trong "Confucian Political Ethics," Daniel A. Bell (Ed.). Princeton University Press. Princeton, NJ., U.S.A.
Rahula, Walpola. 1974. What the Buddha taught. Grove Press. New York, New York, U.S.A.
Reeve, C.D.C. 2004. Plato Republic. Hackett Publishing Company, Inc. Indianapolis, IN., U.S.A.
Shih, Hu. 1946. Chinese Thought, trong "China," Harley Farnsworth MacNair (Ed.). University of California Press, Berkeley và Los Angeles, CA., U.S.A.
Tatz, Mark (Translator). 2001. The Skill in Means Sutra. Reprint Edition. Motilal Banarsidass, Delhi, India.
Thurman, Robert. 1999. Inner Revolution – Life, Liberty, and the Pursuit of Real Happiness. First Riverhead paperback edition. The Penguin Group. New York, New York, U.S.A.
Trocmé, André. 2003. (Edited by Charles E. Moore.) Jesus and the nonviolent revolution. Revised and expanded edition. Plough Publishing House, Walden, New York, U.S.A.
Van Norden, Bryan W. 2008. Mengzi with selections from traditional commentaries. Hackett Publishing Company, Inc. Indianapolis, IN., U.S.A.
Wink, Walter. 2003. Jesus and Nonviolence. A Third Way. Fortress Press, Minneapolis, MN., U.S.A.
Wong, Eva. 1997. Taoism. An Essential Guide. Shambhala Publications, Inc. Boston, MA., U.S.A.
Nguồn Internet:
Astiadi, Sasha. 2014. A proverb explained: Tyranny is Fiercer Than a Tiger. 21-1-2014.
http://www.theworldofchi...is-fiercer-than-a-tiger/ (truy cập 14-8-2018).
Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Biết người biết ta (Phần 1): Tính chất và một mô hình cuộc đấu tranh. 17-7-2014.
http://danlambaovn.blogs...phan-1-tinh-chat-va.html (truy cập 17-8-2018).
Carolina Journal. 2013. Friday Interview: The Role of Violence in Locke’s Second Treatise. 8-11-2013.
https://www.carolinajour...-lockes-second-treatise/ (truy cập 14-8-2018).
Ginsburg, Tom; Lansberg-Rodriguez, Daniel; và Versteeg, Mila. 2013. When to Overthrow your Government: The Right to Resist in the World's Constitutions. 60 UCLA Law Review 1184. 2013.
https://chicagounbound.u...context=journal_articles (truy cập 14-8-2018).
Hankins, Luke. 2014. Liberty and Small Government in Tao te Ching. 22-4-2014.
https://fee.org/articles...ernment-in-tao-te-ching/ (truy cập 16-8-2018).
Liu, Dimon. 2016. This House Believes that Liberal Democracy is not possible in China. Dissident. 26-7-2016.
http://blog.victimsofcom...s-not-possible-in-china/ (truy cập 15-8-2018).
Mattis, Peter. 2012. In a Fortnight. Another Lei Feng Revival: Making Maoism safe for China. The Jamestown Foundation. China Brief. Vol. XII. Issue 5. March 2, 2012.
https://jamestown.org/wp...2/03/cb_03_05.pdf?x87069 (truy cập 14-8-2018).
Yifa, Venerable. 2008. Story of the Compassionate Ship's Captain. 29-9-2008.
http://venyifa.blogspot....onate-ships-captain.html (truy cập 16-8-2018).
White, Chuck. 2016. Does "turn the other cheek" mean that Christians are to be doormats? 9-3-2016.
http://thoughtfulcatholic.com/?p=45181 (truy cập 14-8-2018).
Wikipedia. 2018a. Right of Revolution. Thay đổi chót: 13-6-2018.
https://en.wikipedia.org/wiki/Right_of_revolution (truy cập 14-8-2018).
_________. 2018b. Plato's five regimes. Thay đổi chót: 2-7-2018.
https://en.wikipedia.org...i/Plato%27s_five_regimes (truy cập 16-8-2018).