Ngậm Ngùi
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
– Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
Huy Cận
Bài thơ này được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc,
Nhận xét về bài thơ Ngậm Ngùi của Phạm Văn Chữ
“Ngậm ngùi”được sáng tác vào năm 1939, có mặt trong “Lửa Thiêng”, tập thơ đầu của nhà thơ Huy Cận (1919- 2005), xuất bản năm 1940. Phải đặt vào hoàn cảnh nỗi buồn thế hệ, ta mới cảm thông và cảm nhận được chất thơ cùng với quan điểm nhân sinh, quan điểm thẩm mĩ mà tác giả đã gửi gắm trong thi phẩm này..
Một chiều mùa thu, nắng đã “chia nửa bãi”, tơ nhện đã “giăng mau”! Cảm doan vậy, bởi chỉ có chiều thu mới đẹp, buồn và tàn mau đến thế…Làng quê ven sông, trong ngôi nhà nhỏ giữa mảnh vườn hoang sơ mọc đầy những lùm cây trinh nữ, một đôi trai gái đang được yêu nhau, được ngủ bên nhau và được mộng mơ trong lời ru nhẹ nhàng, êm ái của “tiếng thuỳ dương mấy bờ’. Tình yêu sâu đậm, trong trẻo và cũng thật là lãng mạn, nên thơ. Họ yêu chiều nhau hết mực. Chàng vỗ về: Em ơi, hãy ngủ anh hầu quạt đây. Và nàng ngoan ngoãn ngủ êm say trong vòng tay, trong lời dục giã âu yếm “Ngủ đi em…” của chàng…Thế rồi, “giấc mộng lớn” đã đến với đôi bạn tình: Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Mà xem ra, mộng của tuổi trẻ và tình yêu dù là “mộng bình thường”, bao giờ cũng là mộng đẹp, hé mở cả chân trời hi vọng về hạnh phúc tương lai.
Nhận ra điều này, nếu như bài thơ dừng lại ở câu thứ tám sau dấu chấm lửng hoặc dẫn cảm xúc theo một chiều hướng khác. Bởi vì ngoại cảnh dù có hiu hắt , buồn vắng mà lúc này đây “Trên trời, dưới đất, giữa hai ta”(VT), thì tình yêu vẫn xua át đi tất cả. Nhưng không, khúc ru buồn sầu não đã cất lên từ bốn câu cuối bài. Thời gian buông mau, khi mà những hàng thuỳ dương đổ dài “ bóng xế ngẩn ngơ”, không còn reo hát vi vu, xạc xào nữa thì lời thơ thật não lòng: Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? Nghe như “ mùa thương khó” trong dân gian cúng những âm hồn vậy! Hỏi “hồn em”nhưng cũng là để nói cho hồn anh, hồn chúng ta đấy. Tuổi xuân đôi mươi mà cõi hồn trải lắm nỗi thương đau đến nhường ấy thì hỏi còn gì là hương hoa, là ý nghĩa cuộc đời. Câu thơ kết bài cứ trĩu nặng mãi lòng người: Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi… Ý tưởng vả triết lí thơ đã dồn nén tất cả vào đây. Thì ra, ở cái chốn trần gian này chỉ có buồn rầu và đau khổ! Nhà thơ đã khéo xếp đặt vào không gian nghệ thuật và câu chuyện tình cả ba dạng thức tồn tại của mỗi sinh thể người: tỉnh thức, ngủ, và mộng mơ. Một sự kết hợp thật hoàn hảo trong tính chỉnh thể hình tượng. Đó là luận chứng và luận cứ để bác lại người đời nông cạn, cứ ảo tưởng cho rằng: tình yêu và tuôi trẻ là điều huyền diệu nhất, hạnh phúc nhất; tình yêu là vĩnh hằng và bất tử… Thì đây, người ta tỉnh và yêu: sầu; ngủ và yêu: cung sầu; đến mộng và yêu: lai cũng sầu!… Tất cả đều không thoát ra khỏi cái “vòng kim cô” của một chữ SẦU. Rồi những trái sầu tinh kết mọng chín kia lại cứ rụng rơi…rụng rơi…Rồi sẽ lại mọc lên những “cây đời” tiếp nối với khúc ca “ngậm ngùi” và mối “sầu vạn kỉ”: Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu. (Linh hồn nhỏ)
Nỗi đau tinh thần là nỗi đau lớn của muôn đời. Bài thơ đã dùng giọng điệu lời ru êm đềm để tỏ nỗi buồn thương, nhớ tiếc cho cả một kiếp người. Câu thơ lục bát truyền thống ở đây điêu luyện, uyển chuyển, tinh tế và đầy nhạc tính. Thuật dùng chữ của tác giả cũng thật tuyệt vời trong cách trau chuốt những từ ngữ thuần Việt đi cùmg từ Hán Việt, trong cách cấu âm, phối thanh để tạo từ ngữ mới có điệu tính cao, mang màu sắc quý phái cao sang, giàu tính biểu cảm. Các biện pháp tu từ thậm xưng, nhân hoá, hình tượng hoá… dùng đắc địa đã làm cho cảnh và tình như cùng hoà điệu trong nỗi “sầu ngẩn ngơ”…
Trong Lửa thiêng, Huy Cận luôn tìm tứ thơ và đặt cảm hứng vào mối tương quan giữa cái hữu hạn của cuộc đời với cái vô cùng vô tận, cái mênh mông rợn ngợp của không gian và thời gian. Cảm thức về nỗi buồn nhân thế bao la, nỗi khổ đau muôn vàn của con người đã tạo cho tập thơ luôn thấm đượm chất sầu, đúc nên cả nguyên khối “ngọc đau buồn” dâng tặng nhân gian. Ở đó, thi nhân đã gửi gắm cái tình sâu đậm đối với đời, đối với người. Ở đó, thi nhân đã có một vùng thẩm mĩ riêng, không ai có được. Và Ngậm ngùi đã thẩm mĩ hoá nỗi sầu đau ấy đến độ toàn bích, luôn gợi cho ta thấm thía về nỗi buồn man mác, mông lung trầm tích trong cõi lòng người, để xứng tầm tiêu biểu cho mảng thơ này.
Ngậm ngùi luôn được đưa vào các tuyển tập thơ, nhất là thơ tình. Từ 1961, Phạm Duy, một nhạc sĩ trứ danh thời tiền chiến, ở miền Nam, đã phổ nhạc Ngậm ngùi thành bài hát nổi tiếng. Nhạc phẩm là một bản tình ca buồn, được bà con Việt kiều rất yêu thích, càng chứng tỏ giá trị nhân bản của thi phẩm.
Có thể nói, Ngậm ngùi là một bài thơ sầu, một bài thơ tình bất hủ. Trong sự nghiệp thơ của Huy Cận, nếu Tràng giang đứng ở vị trí thứ nhất thì Ngậm ngùi xứng đáng đứng ở vị trí thứ hai, liền ngay sau đó.