logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 28/06/2019 lúc 10:01:00(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
ĐỌC “VỀ THU XẾP LẠI…” CỦA ĐỖ HỒNG NGỌC

UserPostedImage

Cảm giác đầu tiên khi đọc tác phẩm mới này của Đỗ Hồng Ngọc, có thể thấy rằng đây là những dòng chữ từ một người sắp ra đi… Chẳng phải sao, ngay trên tựa sách đã ghi là “Về thu xếp lại…” (VTXL).
Đúng là trong các tản văn có nói về tuổi già, về bệnh, về những người bạn đã ra đi – trong đó, ngay ở Lời Ngỏ là ghi lại hình ảnh tới thăm người bạn thân, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tại phòng Săn sóc đặc biệt Bệnh viện Chợ Rẫy.
Tác giả Đỗ Hồng Ngọc, một bác sĩ về hưu và đang giữ thói quen Thiền tập hàng ngày, tự ghi lại hình ảnh của mình, trích:
“…Thấy những bạn trẻ... trên dưới bảy mươi mà “gato”! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi nằm nôi...” (Lời Ngỏ, VTXL)
Cần ghi nhận rằng chữ “gato” trong đoạn trên là tiếng lóng trong nước, có nghĩa “ghen ăn tức ở” dùng trong giới trẻ. Như thế, hình ảnh tuổi già dưới mắt ĐHN rất mực độc đáo: phải cao niên tới một tuổi nào đó, mới thấy mình như tuổi ấu thơ (vì trí nhớ lãng đãng rồi), thấy mình ở tuổi chập chững (vì đi lụm khụm rồi), thấy mình như tuổi nằm nôi (vì phần nhiều là nằm bệnh)…
Tuy nhiên, giọng văn không hề bi quan tí nào. Từng trang sách là những dòng chữ rất mực yêu thương trần gian này. Ông nói về già và bệnh, đồng thời đưa ra kinh nghiệm lạc quan của bản thân về Thiền tập, về quán niệm hơi thở, vể trải nghiệm những dòng chảy thời gian trên cơ thể, trên trí nhớ…
Đỗ Hồng Ngọc nói về khổ đau, nhưng chỉ xem như là chuyện hoa nở hoa tàn, như ở Chương cuối trong VTXL: “…tại vì có cái ta mà phát sanh phiền não, khổ đau. Pháp vận hành theo pháp, chẳng vì ta. Chẳng vì ta mà hoa nở hoa tàn. Nếu không can thiệp thì nó vậy là nó vậy. Sự phân biệt chính là can thiệp, dính mắc.”
Đỗ Hồng Ngọc nói về cái chết, nhưng chỉ xem như một quà tặng từ cõi trần gian, trong cùng chương vừa dẫn: “Thuốc đã sẵn có. Phật giáo nhìn cái chết là sự vận hành của pháp. Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời, cái sống. Cho nên chết không phải là hết. Cái sống, một hiện tượng tạm thời và vận động không ngừng, vô thường thú vị, một bonus, nên cái chết cũng là vô thường, một bonus khác.”
Không phải là mượn lời của ai, hay dẫn lại từ sách, mà tất cả là từ kinh nghiệm của nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, cùng chương vừa dẫn: “Không phải là lý thuyết suông, mà là sự thực nghiệm, thể nghiệm ngay trên bản thân mình.  Hãy đến và nếm thử. Mô tả không được!”
Không phải nếm thử cái chết, tuy rằng Đức Phật có dạy pháp niệm tử. Nơi đây, nhà văn họ Đỗ nói rằng những thể nghiệm trong cõi trần gian tuyệt vời đó là từ bản thân ông khi sống với Kinh Phật, trích cùng chương vừa dẫn:
“Mà thấy Pháp tức là thấy Phật. Pháp nó tự vận hành. Không có người vận hành. Không có ta. Cho nên Phật dạy cách khác đơn giản hơn: Cái thấy chỉ là cái thấy. Cái nghe chỉ là cái nghe. Chỉ vậy. Khi có cái “ta” xen vào: Ta thấy, ta nghe... thì đã sinh sự. Có ta hay không có ta thì pháp nó cũng cứ vận hành như vậy. Nhưng bằng cách nào để sống được “cái thấy chỉ là cái thấy”? Vì ta không phải là gỗ đá, vô tri. Vấn đề chỉ ở chỗ không dính mắc. Cô hoa hậu xinh đẹp thì thấy là xinh đẹp, nhưng dính vào thì tiêu!”
Chỉ trong vòng mấy câu trên, chưa hết một đoạn văn, Đỗ Hồng Ngọc đã ghi lại “sự thực nghiệm, thể nghiệm ngay trên bản thân mình.  Hãy đến và nếm thử” một số bản kinh nhà Phật.
“Thấy Pháp tức là thấy Phật” là từ Kinh Tương Ưng SN 22.87, khi Đức Phật thăm ngài Vakkali đang bệnh, và nói: “Vakkali, hễ ai thấy Pháp là thấy ta; ai thấy ta là thấy Pháp.”
“Pháp nó tự vận hành. Không có người vận hành. Không có ta” là từ Luật duyên khởi, không hề có cái gì gọi là ta hay người. Trong Kinh Trung Bộ MN 115, Đức Phật nói: “Nếu cái này có, cái kia có; do cái này sanh, cái kia sanh. Nếu cái này không có, cái kia không có; do cái này diệt, cái kia diệt…” Không hề có bất kỳ ai vận hành, và cũngc hẳng có cái ta nào.
Đỗ Hồng Ngọc lại tiếp rằng lời Phật dạy hãy giữ cái thấy nghe chỉ là cái thấy nghe… chính là từ Kinh Bahiya.
Họ Đỗ lại thêm rằng chỉ là ở chỗ không dính mắc… câu này là từ Kinh Kim Cương và rất nhiều kinh khác.
Đỗ Hồng Ngọc dẫn ra cội nguồn khổ là từ tham ái bằng hình ảnh cô hoa hậu xinh đẹp… cũng từ rất nhiều kinh.
Tuyệt vời cho nhà văn Đỗ Hồng Ngọc và cho bất kỳ ai đã có thể sống được như ông, khi đã “thể nghiệm ngay trên bản thân mình” những bản kinh Phật như thế.
Nhưng không khô khan hay trịnh trọng chút nào. Văn của Đỗ Hồng Ngọc không hề khô khan như các lớp toán hay vật lý chúng ta đã trải qua.
Trước tiên là cách đặt nhan đề, sách và chương sách – tất cả đều từ ngôn ngữ thơ mộng của Trịnh Công Sơn, người bạn thân của tác giả. Nhưng chính cách kể chuyện của Đỗ Hồng Ngọc mới là độc đáo, tuyệt vời, luôn luôn gây giựt mình cho độc giả.
Thí dụ, tuổi đẹp nhất của đời người? Như dường là hầu hết mọi người đều đoán sai… vì câu trả lời của Đỗ Hồng Ngọc là tuổi 65-75:
“Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng... đang tiếc mãi tuổi 75… Cái tuổi đẹp nhất của đời người theo tôi có lẽ ở vào lứa 65-75. Đó là lứa tuổi tuyệt vời nhất, sôi nổi nhất, hào hứng nhất... Tuổi vừa đủ chín tới, có thể rửa tay gác kiếm, tuyệt tích giang hồ…” (Lời ngỏ)
Tuổi 75 đẹp nhất? Bạn nhiều phần là sẽ đồng ý với tác giả Đỗ Hồng Ngọc, nếu bạn đọc xong tuyển tập tản văn này.
 
Đọc văn Đỗ Hồng Ngọc cũng cần có thái độ rất bình tỉnh… bởi vì khi kể về già và chết, ông đã gọi đó là diễn biến tuyệt vời. Như ông viết ở Chương Cát bụi tuyệt vời, trích:
“Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh. Hơi vào có hơi ra và ngược lại. Cho nên người đạt đạo họ tỉnh queo, nôm na là họ... giác ngộ. Họ chẳng cần phải bối rối. Họ biết nó phải vậy. Như Thị.
Chu trình “khép kín” đó bắt đầu tăng tốc ở lứa 65-75 tuổi. Tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo. Sự  tăng tốc của lứa tuổi này cũng làm ta há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc… như ở tuổi dậy thì, tuổi mới lớn. Cái vòng đời nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu! Nhiều bạn cùng lứa than với tôi sao thế này sao thế khác, tôi thường chỉ nói “Ai biểu già chi?” rồi cười xòa với nhau mà không khỏi có chút … ngậm ngùi.”
Dĩ nhiên, Đỗ Hồng Ngọc khác rất nhiều với người đời thường (như tôi, chẳng hạn, một nhà văn không biết gì về y khoa). Đỗ Hồng Ngọc kể về thời sinh viên, chuyện xương người với đầu lâu là những thứ phải học kỹ, phải nhớ tên gọi và chức năng của từng hốc xương, khớp xương… Nhưng chuyện tu học thì, hiển nhiên là ai cũng có thể cảm nhận được những ghi nhận của họ Đỗ về Kinh Phật. Khi ông kể về trải nghiệm ngay trên cơ thể của ông.
Trong Chương Tôi chợt nhìn ra tôi của sách VTXL, tác giả kể về “tôi thấy tôi” – tức là thấy cái vô ngã, cái vô thường, và do vậy là cái thật tướng vô tướng, trích:
“…không phải bất ngờ vì tôi thấy tôi. Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là “quán”.  Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không... . Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ. Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. Và nếu quán một cách sâu sắc hơn, có thể thảng thốt kêu lên: “Bổn lai vô nhất vật”! (Lục tổ Huệ Năng)… 
Có lần Phật hỏi Duy-ma-cật: Ông quán Như Lai thế nào? Duy-ma-cật đáp: Thì như quán pháp thân của Phật và của chính tôi thôi. Có gì khác nhau đâu!
Nhìn thì có thể thấy khác. Bởi nhìn thì qua mắt, nhãn căn. Quán thì không nhìn bằng mắt. Mà nhìn bằng cả năm thứ con mắt (ngũ nhãn) gồm nhục nhãn (mắt thịt), thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.  Thú vị, khi quán thì cả Như Lai, Phật và Tôi... đều là một, không khác. Đó là đã thấy pháp thân, thật tướng vô tướng.”
Đỗ Hồng Ngọc còn dùng những hình ảnh để độc giả dễ hình dung xem thật tướng vô tướng đã héo đi thế nào, trích:
 “…Trước hết tôi bây giờ già hơn tôi xưa, già thấy rõ, già tốc hành chớ không phải già lai rai như trước.
Nhiều hôm nhìn vào gương soi, tôi thấy mình như một quả táo để lâu ngày, héo dần, teo tóp, nhăn nheo. Nhưng có cái gì đó như cứng cỏi hơn, tuy quắt queo mà chỉ bay hơi nước, bay cái láng mượt, nuột nà của quả táo căng phồng, ngây thơ, tràn đầy thuở nào. Bây giờ thì co cụm lại, co rúm lại, gom tụ lại vào trong cái hột, cái lõi.”
Hình ảnh đi từ trừu tượng “cái tôi trong thật tướng vô tướng” trở về cái trước mắt, cái trên bàn của “cái tôi như quả táo héo mòn, nhăn nheo”… hình như chưa từng có nhà văn nào viết như thế. Nhưng đó cũng chính là sự thật của cõi này, khi Đức Phật tuyên thuyết về tứ diệu đế.
Trong khi phần lớn đều lo sợ già, lo sợ nhăn nheo, Đỗ Hồng Ngọc gọi đó là diễn biến tuyệt vời, và ông quan sát hàng ngày với thái độ xem chuyện lão hóa là “cũng dễ thương quá”… Họ Đỗ viết trong chương vừa dẫn:
“…Rồi đến cái tuổi gió heo may, dìu dịu, nhạt nhòa nhưng vẫn là tuổi năng nổ, hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả nhất để rồi chuyển sang tuổi già, tạm coi là sau tuổi 65, một chu trình “khép kín” đã lại bắt đầu: tăng tốc khô héo, tăng tốc nhăn nheo, tăng tốc ngược chiều đủ làm hết hồn, làm há hốc, muốn kêu lên kinh ngạc…
Nó diễn biến tuyệt vời đến vậy, liên tục đổi thay đến vậy thì có gì đáng phàn nàn đâu, có gì mà không thể tủm tỉm cười một mình đâu. Cho nên nếu tôi có gì khác tôi xưa thì chính ở chỗ tôi có phần... khoái cái sự già nua tăng tốc đó của mình, tôi hồi hộp dõi theo nó, tôi cảm thấy nó…hợp lý, nói chung là… cũng dễ thương quá đó chớ!
Ở tuổi 70 chưa thấy già đâu. Thậm chí đến 72, 73 vẫn còn thấy trẻ chán.” (ngưng trích)
Đỗ Hồng Ngọc kể chuyện đời thường của ông, qua đó cho thấy ông quán sát thân tâm liên tục, xem các diễn biến như xem hoa bay gió thổi, không hề khởi tâm kinh hãi với vô thường, trích cùng chương dẫn trên:
“…Nhiều khi, sáng dậy, nhìn vào gương soi tôi lại thấy tức cười. Tôi đó sao? Nhăn dần từng nét ngộ nghĩnh trên mắt trên da. Đôi khi muốn lấy viết vẽ nguệch ngoặc gương mặt thay đổi từng ngày của mình, từng ngày nhưng rất nhanh, thấy rõ chứ không như ngày xưa, nhiều năm mới nhận ra nét đổi thay. Tôi tức cười nhìn mình. Nó nhìn tôi cũng cười. Ngộ nghĩnh. Cười mà ráng. Không ráng thì nó trĩu nặng. Mấy tế bào của cơ mặt hình như sinh tật làm biếng, xệ xuống cho khỏe…
…Ghi tiếp “Nhật ký rời”: Chỉ còn mấy ngày nữa, đã đầy tám chục (tuổi ta). Phải nhanh chóng ghi lại vài điều kẻo quên.Thứ nhất, ở tuổi này tôi thấy tay mình ngày càng run. Làm cái gì mà cẩn thận thì đổ vỡ. Làm cái gì không tính trước thì được. Tùy cơ ưng biến thì tốt. Tay run đến nỗi viết cũng khó mà vẽ chơi cũng khó. Tôi phải vẽ kiểu “tốc họa”, vẽ như chớp, theo một cảm xúc bất chợt, không toan tính thì tốt. Ai bắt chước được cái run?” (ngưng trích)
Trong khi tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết để kể về những trải nghiệm riêng, độc giả hiển nhiên là không mong đợi những chuyện ly kỳ như phim 007 hay truyện Z 28. Tất cả lời kể trong VTXL chỉ là những chi tiết đời thường, dưới mắt quan sát của người có thói quen thiền tập như Đỗ Hồng Ngọc đều đột nhiên trở thành đáng chú ý.
Thí dụ, tác giả Đỗ Hồng Ngọc kể về chuyện ngủ, chuyện thức dậy, chuyện ghi trên giấy từ đêm trước về những gì cần làm, chuyện xem trận banh, chuyện đọc tin trên báo chỉ cần liế qua cái tựa… nghĩa là chuyện đời thường soi rọi dưới mắt ông. Phải chăng đó là từ thói quen quán sát thân tâm?
Hay là khi tác giả tự soi gương, nhận ra tóc bạc, da nhăn… rồi chuyện ngồi thiền, quán niệm hơi thở, rồi niệm từ bi, niệm hỷ xả… rồi tự pha ly cà phê, rồi ngồi vào máy tính.
Cứ tà tà kể chuyện như thế, cuốn sách cũng hoàn tất. Tuy là chuyện đời thường, là chuyện của người già, nhưng thực sự không đời thường tí nào, cũng không già cỗi tí nào. Vì nơi đây, từng khoảnh khắc được  quan sát và kể lại, đã hiển lộ lên một thế giới rất mực lạc quan. Nói về già nhưng vẫn là thơ mộng rất mực, như đùa như giỡn… Nói về cái chết nhưng vẫn dịu dàng như nói với người bạn thân sắp gặp lại.
Như cách Đỗ Hồng Ngọc viết về bệnh:
“…Nhưng bệnh cũng có cái hay của nó chứ. Nó làm cho ta nhớ lại mình. Đã đành biết bệnh tật gắn vào mình từ trong trứng nước, thậm chí trước đó nữa, ở nơi ông bà cha mẹ mình từ ngàn xưa qua các gene di truyền nhiều thế hệ, nhưng cứ mỗi lần bệnh tật, với tôi, trở thành một cái giật mình. Mà cũng lạ, đường đường là một người thầy thuốc, học hành đàng hoàng, ra trường hơn nửa thế kỷ, nghề nghiệp chín chắn, nổi tiếng là người thầy thuốc “mát tay”, luôn quan tâm chăm lo giúp đỡ cho người khác khi có ai nhờ đến, cả bệnh thân lẫn bệnh tâm, vậy mà, với mình, tôi quên tôi tuốt. May thay, nhờ có bệnh nhắc. Mà không phải là bệnh nhẹ. Bệnh nhẹ không đủ nhắc tôi đâu…”
Hay như khi Đỗ Hồng Ngọc viết về cái chết, về cách luôn nhớ về cái chết:
“…Có cách nào để người ta luôn nhớ đến cái chết để được sống hạnh phúc hơn không?
Có đó. Cứ ngồi yên đó. Lăng nghe hơi thở của mình. Thở vào... thở ra. Một hơi thở là một cuộc sống. Thở ra rồi thở vào. Lại một cuộc sống mới. Thì ra.... sống và chết là một chu kỳ hình sin. Cái gọi là sống, cái gọi là chết. Gọi vậy thôi chớ không phải vậy. Có thể đảo ngược lại. Nhìn kỹ thì thấy cái chết mới là cái sống. Thở vào như sóng. Thở ra như nước. Sóng là nước. Nước là sóng. Tùy duyên. Bày đặt vui thôi mà!”
Trong tuyển tập VTXL, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc còn viết nhiều về ăn, ăn mặn hay ăn chay, về thỉnh thoảng nấu ăn, về bốn loại thức ăn theo quan điểm nhà Phật, về thuốc đông tây nam bắc, về thời đi học mỗi sáng ăn xôi, về dạo cảnh chùa, về những buổi đi uống cà phê cùng bạn, về những người bạn vắng dần, về Internet mang theo nước mắt nụ cười…
Nói về đời thường, và rồi nói về mật nghĩa cõi này. Tới những đoạn văn như thế, chúng ta tự nhiên đọc chậm lại, và có thể phải đọc đi đọc lại rất nhiều lần, vì văn nơi đây nghe như thơ, như kệ, như nhạc, như thần chú, như mật nghĩa của pháp.
Thí dụ, như đoạn văn sau, khi Đỗ Hồng Ngọc viết:
“Phật có đến có đi. Có từ bi có hỷ xả. Có nói năng có im lặng. Có thể dùng âm thanh dùng ánh sáng dùng chuông mõ, tiếng tụng niệm mà thấy Phật. Nhưng Như Lai thì không. Không thể dùng âm thanh, ánh sáng mà thấy Như Lai. Kinh nói Như Lai thọ lượng mà không nói Phật thọ lượng vì Phật thọ lượng chỉ có hơn 80 năm! Kinh nói Như Lai thần lực mà không nói Phật thần lực vì Phật chẳng ưa chuyện thần thông. Kinh nói vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai mà không nói vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật… Cho nên, Phật là Như Lai, mà Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai. Nó vậy đó…”
Đọc thấy Đỗ Hồng Ngọc viết chữ “vậy  đó” rất mực dịu dàng, nhưng từng chữ một vẫn nặng rất mực, kiên cố rất mực.
Trong sách, chúng ta đọc thấy Đỗ Hồng Ngọc còn viết nhiều nữa, như về Trần Nhân Tông, về Tuệ Trung Thượng Sĩ… Tác phẩm “Về thu xếp lại..” của Đỗ Hồng Ngọc không chỉ để đọc một lần. Sách này có thể nên đưa vào túi xách, nên mang theo bên người để thỉnh thoảng đọc lại. Để không sợ già, không sợ chết, để biết cách đùa giỡn với bệnh, và cũng để biết cách Thiền tập trong những cách tự quan sát thân tâm mình không rời.
Tuy rằng Đỗ Hồng Ngọc có cẩn trọng ghi rằng sách này là “góp nhặt từ những trang nhật kỳ rời, từ những ghi chép lang thang không ngày tháng, rải rác nơi nọ nơi kia… Rất riêng tư, và rất chủ quan...” nhưng các chuyện kể trong sách cũng là chung cho mọi phận người, nơi những dòng chữ của ông có thể giúp độc giả sống bình an giữa những bất an cõi này, sống yêu thương giữa những hoang mang cõi này.
Có thể tin rằng tác phẩm “Về thu xếp lại..” sẽ có một vị trí độc đáo trong văn học Việt Nam, và cũng rất đặc biệt sẽ là một cẩm nang sống cho nhiều người học Phật tương lai.  

Nguyên Giác 
Đọc về thu xếp lại (Đỗ Hồng Ngọc) 4 chương đầu tại đây:
https://thuvienhoasen.org/a31683/ve-thu-xep-lai

phai  
#2 Đã gửi : 28/06/2019 lúc 10:02:06(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Tản mạn khi đọc “ Về thu xếp lại “ của Đỗ Hồng Ngọc

Từ “ cát bụi tuyệt vời “ đến “ cát bụi mệt nhoài “
ĐHN mở đầu quyển sách mới nhất  gồm 10 chương của mình bằng chương “ Cát bụi tuyệt vời…” .Anh viết : “Cái hình ảnh lấy cát bụi vo thành một cục rồi thổi vào đó một hơi dài để vươn vai lớn dậy làm người thì thật là thú vị . “ Nhưng  “ Có điều để cái “ cái bụi tuyệt vời “ này trở thành “ cát bụi mệt nhoài “ là lỗi tại ta .” Tạ sao vậy ? Chúng ta đều biết rằng cơ thể của mình khi sinh ra đã được lập trình sẵn đến giờ G thì nó sẽ ra đi , thậm chí sớm hơn nếu gặp tai nạn . “ Sinh thành hoại diệt” là quy luật  ai cũng biết . Từ xa xưa trong tiếng La tinh khi nói về con người , người ta dùng từ Homo , bắt nguồn từ Humus nghĩa là cát bụi và cũng từ căn ngữ ấy mà con người phải hiểu phải sống khiêm cung , nhún nhường , kính trọng những gì làm nên sự sống ( Homo- Humus –Humble – Humility…)  Nhưng sao “ cát bụi mệt nhoài ‘? Vì ta thôi ! Ta không biết tận hưởng cuộc sống này , ta loay hoay trong những ước mơ , tham vọng , mưu đồ toan tính và biến cuộc sống này trở thành nơi đấu tranh hay tệ hơn nơi giành giật niềm vui , thành đạt có khi từ tay người khác  
 Tác giả nhìn  vòng đời của con người trôi qua một cách lặng  lẽ với sự hiểu biết những nguyên lý vận hành cua nó vì bản thân anh là bác  sĩ “ Nhiều khi ,sáng dậy , nhìn vào gương soi tôi lại thấy tức cười .Tôi đó  sao ? Nhăn dần từng nét ngộ nghĩnh trên mặt trên da...Mấy tế bào của cơ mặt hình như sinh tật làm biếng  , xệ xuống cho khỏe .” Anh cũng chợt nhận ra “ Lâu nay tôi hoang phí năng lượng vào những chuyện không đâu cho nên cơ thể căng cứng , rã rời. Lúc nào phổi cũng phải bơm hơi cho kịp , tế bào cũng hì hục sản xuất năng lượng .”  (Tôi chợt nhìn ra tôi ) 
Thu xếp hay buông thư   ? 
 Từ “ Gió heo may đã về “ ĐHN  đã nhìn thấy tuổi già lặng lẽ bước đến ở tuổi 55 , đến 60 anh lại “ Già ơi ..., chào bạn !“ . Đến  75 anh còn thủ thỉ “ Già sao cho sướng ? Nay thì đã 80 rồi , trên cả thượng thọ , anh thấy cần phải “Về thu xếp lại “.   Anh thu xếp cái gì ? Cho ai ? Trước hết , anh thu xếp giờ giấc cho chính mình . Thu mà không thu . Mặc kệ nó . Muốn ăn thì  ăn ; muốn ngủ thì ngủ , không đặt ra chương trình “ hành động “ cho mỗi ngày .Nhưng cũng phải có chút kỷ luật , ngăn nắp : ăn vừa đủ  , ngủ vừa đủ , làm việc lai rai cho đỡ mụ mị đầu óc ,và đặc biệt rèn luyện thân tâm qua việc ngồi thiền , nhưng ngồi cũng vừa đủ , tránh “ tẩu hỏa nhập ma. “ Kể cả thở ,“Bây giờ tôi chủ trương thở vừa đủ xài . xài ít thì thở ít.” Nhân nói chuyện thu xếp, tình cờ hôm nọ  vào nhà sách Phương Nam , tôi mua được quyển “ The Life- Changing Magic of Tidying “ của Marie Kondo , đọc để thay đổi thói quen hành vi của chính mình vì tôi vốn dĩ luộm thuộm, lôi thôi bị rầy hoài mà vẫn quen tật ‘ lộn xộn ‘, sách vở để lung tung ! Trong sách , ngay phần mở đầu tác giả đã viết “Khi bạn hoàn tất việc sắp xếp lại căn nhà của mình  , bạn sẽ thấy cuộc đời mình thay đổi một cách diệu kỳ. “ Một đoạn khác tác giả viết “ Nó cũng hệt như thực hành “ phong thủy “ , khi bạn thu xếp căn nhà của mình trong một trật tự hoàn hảo thì bàn ghế và các vật trang trí sẽ mang lại sức sống cho ngôi nhà đó .” , và cho rằng khi bạn thu xếp đồ đạc quanh mình gọn gàng , bạn đã ‘lập trình ‘lại tâm mình .  Nguyên tắc căn bản đầu tiên là : Phải biết vứt đi ! Nghĩa là bỏ đi hết những thứ không cần , không dùng , kể cả sách vở không đọc , hay dự tính sẽ đọc.... Làm những gì cần phải làm . Nói như ĐHN là “ rửa tay gác kiếm “ . Giờ đây , anh không khám bệnh , chỉ dự tham vấn thôi.”Dạy ít dần . dạy, chủ yếu là kể chuyện đời xưa cho sinh viên nghe , không dạy kiến thức , kỹ năng mà dạy về thái  độ , về mối quan hệ thẩy thuốc , bệnh nhân , về y nghiệp, y đức.Đó là cách tôi “chọn ưu tiên” và “ tối ưu hóa “ việc của mình ở tuổi gìà này “ , cũng là biết sắp xếp công việc phù hợp tuổi tác và sức khỏe. 
 Đó là việc bên ngoài .Còn  bên trong thì sao ?Anh ĐHN muốn ta sắp xếp cái “ phong thủy” bên trong vốn lộn xộn ,“ tâm viên ý mã “ như khi anh viết Chương “ Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi “,  anh đề cập đên chuyện cảm xúc tuổi già , dễ mau  nước mắt , xem phim , đọc truyện tới đoạn nào lâm ly là khóc , khóc không kiểm soát  được . Tôi đã chứng kiến nhiều lần việc này ở những người bạn U- 70 hay U-80 của mình : có người  đi công tác ra Côn Đảo với tôi nghe kể chuyện về các tù nhân ngày xưa trong các trại , khóc ngon lành , khóc không dỗ được ; hay có người chỉ cần nghe lại nghe một bài hát quen thuộc là khóc  , bất kể ở đâu ...Thế nên thu xếp lại là điều chỉnh mình “ , sắp xếp cái “ đồng hồ sinh học “ cho nó sao cho ổn hơn , để nhận ra cuối đời rằng “ trăm  vết thương rồi như đá ngây ngô . “và cũng  hiểu rằng cái chết đã được lập trình ngay khi sinh ra như đã nói ở trên . 
Là bác sĩ đồng thời lại “ thâm  nhập kinh tạng “ khá sâu sắc , ĐHN hiểu ‘ ngũ uẩn giai  không “ , hiểu lý vô thường ,vô ngã của thân tâm ta , của vạn pháp quanh ta. Anh hiểu  bốn sự thật mầu nhiệm, mà Đức Phật dậy , khởi đi từ Khổ đế gồm Khổ khổ , Hành khổ và Hoại  khổ ví như đau răng là khổ mà không đau răng cũng là khổ vì hễ có răng là có khổ ,có thân là có bệnh như lẽ tất yếu mà mầm  hoại diệt nằm trong cái được sinh ra . Đó là ý nghĩa của Tập đế - nguồn gốc của các khổ . ĐHN muốn ta “ giành lại chủ quyền “ trong những ngày tháng  cuối khi ta phải biết kết hợp thân tâm .Nói như Thiền sư Nhất Hạnh “ Tâm ta là một vương quốc với lãnh thổ khá rộng bao gồm sắc, thọ. tưởng .hành và thức . Nếu ta  để cho những cảm xúc và tri giác bị kéo đi bởi những thói quen và tập khí thì ta đánh mất chủ quyền ngay trên lãnh thổ chính mình “ (TNH-Con đã có đường đi ) 
 Anh tìm đến cội nguồn của phiền muộn , của vô minh khi viết  “ Kiến tánh là Giác Ngộ . Dễ không ? Còn lâu.Nói chung thì vì cái tâm mình  nó lờ mờ , nó tù mù , nó u tối nên sinh ra tham lam . Gì cũng muốn , bao nhiêu cũng không đủ...Rồi cũng vì cái tâm lờ mờ ....nên sanh ra giận ( sân ) . No mất ngon giận mất khôn .  Cuối cùng anh trở về với tự thân mình “ Nghiệp từ thân khẩu ý mà nên. Cho nên chỉ có ta mới cửu được ta .Cho nên phải quay lại với mình , phải nương tựa chính mình , còn tìm kiếm đâu xa”  (Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt )
Chúng ta biết theo nhà Phật , nếu bát chánh đạo là con  đường đưa đến giải thoát thì bát tà đạo  là con đường đưa đến khổ đau ví dụ như  tà niệm  lúc nào cũng muốn làm sao có nhiều quyền hành danh vọng và sắc dục  hay tà tinh tấn là mải mê làm việc quên cả việc chăm lo bản thân và gia đình  ....Ta phải về nương ‘ hải đảo tự thân “ vì khổ đau có mặt cùng lúc với  hạnh phúc. Chỉ vì ta không biết .Thế nên Nhà Phật dạy Diệt đế là sự vắng mặt của khổ đau như là bóng tối và ánh sáng . Trong ta vửa có bùn lại vừa có sen , có cả rác và hoa .
Bác sĩ họ Đỗ bàn sâu  về ngồi thiền . Trong   vài Chương sau cùng , anh viết về “ Tứ niệm xứ “ , về phương pháp thiền quán  theo Kinh An Ban Thủ ý. Anh nói về hơi thở và cách thở “ Cứ ngồi yên đó , lắng nghe  hơi thở của mình . Thở vào ...thở ra . Một hơi thở là một cuộc sống “ .. Không có hơi thở nào của hôm qua ,Không có hơi thở nào của ngày mai . hơi thở chỉ có hôm nay .Ở đây và bây giờ . Cho nên biết thở là biết  sống ở đây và bây giờ . Người nào luôn nhớ cái chết thì sống hạnh phúc ”( Đôi khi trên lá khô một  dòng suối ) Nói theo giáo lý nhà Phật thì đó chính là” Hiện pháp lạc trú “ hay Sức mạnh của hiện tại ( The Power of Now ). Anh cũng nói “ Thở sẽ tự động điều  chỉnh theo nhu cầu năng lượng của hành giả .. Cảm nhận lúc đó như tan vào hư không , không còn ngã , nhân , chúng sanh thọ giả gì nữa .”Nhờ “ quán hơi thở “ ta sẽ thấy hay nhận ra những nguyên lý khác của sự sống, của các pháp quanh ta .“ Một chiếc lá vàng rơi, người thi sĩ thấy cả mùa thu .. nhưng người quán chiếu lại thấy sự vô thường , vô ngã ,bất sinh bất diệt” ( Trời cao đất rộng một mình tôi đi ) 
ĐHN nói rằng nhờ học Phật  khiến thân tâm trở về hợp nhất nên anh  “ Ăn được , ngủ được , tức ăn ngon , ngủ yên , làm việc nghiên cứu , giảng dạy viết  lách ít mệt mỏi , suy nghĩ tập trung tốt ...Sau đó biết thưởng thức cuộc sống , bớt sợ hãi , bớt lo toan tính toán ... Không phải là lý thuyết suông mà là sự  thể nghiệm làm ngay trên bản thân mình ..”( Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười ) . 
 Chúng ta biết thiền ( Dhyana) nghĩa là buông thư , dừng lại , trong khi chúng ta ai cũng mang  hạt giống ham muốn , rong ruổi ,tìm kiếm . Nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng viết :
”Lang thang từ độ luân hồi 
U minh nẻo trước xa xôi dặm về  (VHC- Nguyện Cầu )  
Đề làm điều này nhà Phật dạy ta dùng  chánh niệm .Niệm là chú tâm quán sát , là biết  những gì đang xảy ra quanh ta và quan trọng hơn , trong ta , Phải thu xếp lại ,nói như ĐHN  ,niệm để đạt samadhi ( định ), nếu không sẽ không thể có tuệ giác được . Nhờ đó ta hiểu biết  rốt ráo về nguồn gốc nỗi khổ và phương pháp diệt trừ những nỗi khổ ấy , chuyển hóa tận gốc những phiền  muộn bằng Đạo đế .Thiền sư Nhất Hạnh dạy ta phải biết “ ôm ấp niềm đau “vì trong chúng ta ai cũng có một chút bệnh ,không nhiều thì  ít , nên kinh An ban thủ ý có một bài thực tập “ An tịnh thân hành “ và một bài “ An tịnh tâm hành “, nghĩa là buông thư thân rồi tiếp theo là buông thư thân .Người viết “  Chúng ta thường có hai khuynh hướng tư duy , một là đi tới cái giận ,hai là đi tới cái thương . Nhưng khổ nỗi tư duy ta cứ thích chạy về phía giận hờn và trừng phạt .”(TNH-sđd) Người ta trước những biến động cuộc đời  thường đi xa cái tâm ‘ trong sáng ngây thơ “ ban đầu của mình như lời thơ Bùi Giáng :’ 
Hỏi tên ? Rằng biển xanh dâu 
 Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa 
Gọi tên là một  hai ba 
 Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm 
 Kinh Phật nói vạn pháp  như mộng ,huyễn ,bọt sóng , hết thảy đều vô thường biến ảo . Có người giải  thích hai câu sau là pháp ngồi thiền , sổ tức , đếm hơi thở trở về với bản thể chân tâm còn đo là vì tâm còn  mong cầu , nghi hoặc . Con người phai biết chấp nhận cả họa và phúc mới đạt được an lạc , bình tâm .
VTXL viết nhẹ nhàng sâu lắng với 10 chương đều bắt đầu bằng những ca từ trong các bản  nhạc Trịnh Công Sơn như một cẩm nang thực hành chứ không thuần lý thuyết , trong đó chứa đựng cả một nền tảng Phật pháp uyên bác và những nguyên lý thiền quán giúp ta “ thu xếp “ lòng mình nhẹ nhàng . Có người rất thân với tôi dã tâm sự  “ Đọc xong VTXL,mình mới thấy cuộc sống này đáng yêu đáng qúy biết chừng nào vì quỹ thời gian gần cạn kiệt , chẳng nên so đo suy tính thiệt hơn với đời nhiều quá  
 Ta tiếc đời ta sao hữu hạn 
Đành không trải hết đượclòng ta ” ( Ta về - Tô Thùy Yên ) 
Trong Chương cuối ,  ĐHN viết :” Tóm lại vì có cái ta mà phát  sinh phiền não khổ đau. Pháp vận hành theo pháp, chẳng vì ta . ”( Để lại thiên thu hình dáng nụ cười ). Chúng ta hiểu thư giãn là hạnh phúc nhưng đồng thời cũng  vẫn phải cảm ơn cuộc đời ,cảm ơn cha mẹ , thầy tổ ,chúng sinh, cả đất  và trời che chở cho ta , nghĩa là vạn pháp vì biết ơn cũng là hạnh phúc .Ta cảm nhận tâm tình  của thi nhân khi viết :
 Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất  trời 
Cảm ơn hoa đã vì ta nở 
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi. 
( Tô Thùy Yên-Ta về ) 
 Đó cũng là nguyên tắc bất nhị khi chủ thể và đối tượng là một  mà bác sĩ họ Đỗ đề cập thoáng qua khi nói đến Tứ niệm xứ .
Trong cái “ thế giới vui “ấy , ĐHN viết “ Xưa nay chưa ai  mô tả một sự “ Cực Khoái “. Nếm trải mới biết . Cuối cùng là  tìm một nụ cười . Nụ cười ấy là sự giác ngộ , giải thoát. “ (Để lại thiên thu hình dáng nụ cười) Cuộc đời như ai đó nói là đo hay đếm bằng những nụ cười . Hãy “ thu xếp lại “ lòng mình để tìm  nụ cười ấy ,theo tôi là tâm huyết của tác giả trong “VTXL”. 

Nguyên cẩn 
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.201 giây.