Hai sáu Tết tôi về quê ngoại thắp hương cho các cụ. Lúc tôi chuẩn bị ra Mả Mộc – bãi tha ma của làng, mẹ tôi tần ngần một lát trước bàn thờ, rồi rút thêm mấy nắm nhang, dúi vào túi xách của tôi, giọng bà chùng xuống:
– Con nhớ qua bên mộ thằng Phúc…
Tôi ngạc nhiên nhìn mẹ. Chỉ mới hơn một năm trước, mỗi khi có ai nhắc đến tên Phúc với bà, bà sẽ quày quả lắc đầu: “Không, không! Tôi không liên quan gì đến nó. Nó họ hàng máu mủ gì với tôi mà…”. Cũng chính bà từng gọi bốn chị em chúng tôi lại, gay gắt: “Mai sau tao có chết đi, cũng cấm cửa cái quân trắng mắt ấy đến nhà”. “Quân mắt trắng” ở đây cũng chính là Phúc… Như đọc được thoáng băn khoăn trong mắt tôi, mẹ bảo:
– Con ạ, các cụ dạy “nghĩa tử là nghĩa tận”. Người chết rồi thì không còn có tội. Mình ngoảnh mặt đi, vong linh nó cũng tủi cũng hờn. Mà ông bà với hai bác dưới ấy cũng chẳng ngậm cười…
Hiểu mẹ, tôi lặng lẽ đi, không hỏi gì thêm. Dường như bà sống nặng về phần âm. Mồ mả các cụ, ông bà tôi và các bác, bà lo chu đáo lắm. Căn nhà của mẹ còn cũ kỹ, nhưng ngôi mộ nào trong họ cũng được mẹ lo xây dựng khang trang. Mẹ vẫn bảo “trần sao âm vậy”. Cái chức con dâu trưởng khoác lên mẹ trăm nghìn nghĩa vụ. Người bà ngày một quắt đi, nhưng gương mặt lúc nào cũng tươi tắn như đang cười, như thể cả cuộc đời, bà gặp toàn may mắn, ngọt bùi…
Chưa đi đến cổng làng, tôi đã thấy thằng Hiển con anh cả chạy theo, vừa thở hổn hển, vừa gọi ầm ĩ. Đến nơi nó nói hụt hơi: “Bà sai… bà sai… cháu… cháu… dẫn cô đi”. Tôi phì cười: “Năm nào tao chả về hương khói cho các cụ mà bà còn lo lạc đường, nhầm mộ”. Thằng bé cười toét, khoe hàm răng sún đến hai phần ba: “Cô ạ, bãi Mả Mộc bây giờ nhiều mộ mới lắm”. Tôi thảng thốt: “Sao lại thế”. Nó hồn nhiên: “Thì lắm người chết mà. Vừa hôm nọ ông Văn sứt môi xóm trước cũng chết đấy…”. Bước chân trở nên trĩu nặng hơn, tôi chợt cảm thấy lòng mình nhoi nhói. Cứ mỗi lần về quê lại thấy làng vắng đi mấy người, dĩ nhiên đa phần là các cụ già. Toàn những người quen thuộc cả, bởi làng chỉ bé tẻo teo. Lớp trẻ lớn lên lại là những đứa mình chẳng thuộc mặt, biết tên. Có phải vì thế mà quê hương lại dần trở nên xa lạ? Thằng Hiển nắm tay tôi lắc lắc, hỏi một câu lạnh người: “Cô ơi, cứ chết dần như thế, thì đến lúc hết cả người cô nhỉ?”. Tôi rút tay, cốc nhẹ lên đầu nó: “Chỉ bậy bạ! Người này mất đi thì người khác được sinh ra chứ. Mà không nói chuyện linh tinh nữa. Dạo này cô giáo còn kêu cháu làm toán chậm nữa hay không?”. Thằng bé rụt cổ cười hì hì nhưng chưa chịu rứt khỏi câu chuyện sống – chết: “Cứ người này chết đi, người khác sinh ra làm gì hả cô. Cứ giữ nguyên như cũ có phải hay không. Để không ai phải chết ấy mà”. Chẳng hiểu sao mỗi lời nói của thằng cháu tám tuổi đều làm tôi thấy gai gai người. Ma xui quỷ khiến thế nào tết nhất đến nơi rồi, nó lại lẵng nhẵng hỏi chuyện chết chóc, đành lấy “chức vụ” làm cô mà nạt nộ: “Cô đã bảo không hỏi linh tinh nữa cơ mà. Học thì lười, chỉ được cái hay vặn vẹo”. Thằng bé thôi không hỏi nữa. Đến bãi Mả Mộc, nó ton tót đi trước có vẻ thông thạo lắm, vừa đi vừa liến thoắng: “Mộ cụ nội phía đằng này, còn cụ ngoại mãi tít bên kia cơ. Cô phải xắn quần lên, tí nữa phải lội qua mương nữa. À, bà dặn cháu phải đưa cô sang mộ bác Phúc. Hôm đám ma bác ấy cô không về…”. Lại quay về chuyện đưa ma, chuyện chết, tôi phải gạt đi ngay: “Mày xách hộ cô túi hoa quả này. Cẩn thận kẻo rơi đấy”. Thắp hương hết cho các cụ, các ông bà nội ngoại, tôi theo thằng Hiển ra mộ anh Phúc. Một nấm đất sơ sài, cỏ vẫn chưa kịp phủ kín những vầng đất mới. Ai đó trồng lên mộ cây hoa cúc. Mùa này mà nó cũng ra được hai bông hoa còi cọc, hoe vàng. Tấm bia tạm hơi nghiêng: 1968 – 2000. Ba mươi hai tuổi, đúng là quá ngắn ngủi. Có lẽ đến năm sáu năm nay rồi, tôi và Phúc chưa hề giáp mặt. Mọi thông tin về anh, tôi hoàn toàn nghe qua mẹ, qua họ hàng, người làng. Mẹ tôi đã tuyên bố cấm cửa, từ mặt anh từ dạo xảy ra vụ việc chị Phương bỏ nhà, sang Trung Quốc kiếm ăn, rồi bị lừa bán cho một lão già dân tộc tuổi đã quá 60…
Phúc là anh con bác ruột tôi. Bà ngoại tôi sinh ra được sáu người con, ba trai, ba gái. Mẹ tôi là út, còn bác Vận bố anh Phúc là con cả. Chiến tranh chống Mỹ, cả ba anh em trai đều lên đường nhập ngũ. Được đúng hai năm bảy tháng thì có giấy báo tử về làng. Mới đầu là bác Số hy sinh, chưa đầy trăm ngày sau, tin bác Sanh vĩnh viễn nằm lại Khe Sanh lại bay về. Bà ngoại phát điên phát dại, ốm hàng tháng trời, đầu rụng trụi cả tóc. Ông ngoại nén đau, bảo bà: “Cả làng, cả xã này còn khối người có con hy sinh. Ông Nhẽ có mỗi mống con trai chưa kịp vợ con gì, đi bộ đội cũng không về nữa. Bà Lựu thì bốn thằng đi, bốn giấy báo tử về. Đánh giặc, cả nước đau thương chứ riêng gì nhà mình. Bà im đi không lại làm hoang mang đến nhà khác. Ai mà chẳng có con đi bộ đội, bà khóc thế quá bằng xát muối vào lòng người ta”. Bà nghe ra, thôi không khóc to, nhưng đêm nào cũng nuốt nước mắt, lẩm bẩm một mình như bị dở người: “Cha tiên nhân bố thằng Mỹ chứ. Cơn cớ gì nó lại đánh nhau với mình. Mình thì trêu ghẹo, thù hằn gì với chúng nó…”. Tối nào bà cũng thắp hương, lẩm bẩm cầu khấn bác Vận về. Trước khi lên đường, bác Vận đã kịp lấy vợ và đẻ một lèo hai cô con gái là chị Yên, chị Yến. Từ ngày nhận giấy báo tử của bác Số, bác Sanh, thỉnh thoảng bác Loan vợ bác Vận lại chạy sang nhà bà ngồi khóc rấm rứt vô cớ. Bà rầu rĩ bảo: “Ông giời cũng phải có mắt chứ. Mày đừng làm cho u rối ruột, rối gan lên nữa”. Thế rồi bác Vận về thật. Có điều hai bàn chân và một cánh tay của bác đã để lại chiến trường. Bà hết cười lại khóc, sờ nắn khắp người bác, đụng đến vết thương, cái sẹo nào, bà lại giật lên như phải bỏng. Bác Vận phải nằm điều trị tại trại điều dưỡng thương binh, nhưng tháng nào cũng trốn về ít ngày. Cứ nhìn bác lết chiếc nạng gỗ khó khăn bằng một cánh tay còn lại, bà lại khóc và chửi đến năm đời, mười đời thằng Mỹ. Bác Vận về, bà giục bác Loan đẻ lấy thằng cu để nối dõi. Như bao người vợ, người mẹ, người bà trong làng bà chỉ mong có đứa cháu đích tôn. Làng tôi vốn phong kiến, nhà ai không có con trai, coi như là “lép vế”. Họ nào không có suất đinh thừa kế, hương hỏa, họ đó bị xóa sổ. Người ta buộc phải có con trai bằng mọi cách. Cái cảnh những bà vợ cả chạy đôn chạy đáo tìm cưới vợ hai cho chồng không phải là hiếm trong làng. Không đẻ được con trai, người ta nghiễm nhiên khoác cái tội lỗi ấy cho người phụ nữ. Và những người phụ nữ lam lũ làng tôi cắn răng chấp nhận, như một quy luật bất biến. Nếu có con gái, gả chồng rồi, các bà mẹ vẫn còn thấp thỏm chờ xem con mình có đẻ được con trai hay không… Cho đến bây giờ, người già làng tôi vẫn kể lại một câu chuyện đau lòng. Nhà ông Cố quét rác ở chợ làng nghèo lắm, vợ ông gầy rớt, ba bận đẻ ba cô con gái là ba bận suýt chết vì hậu sản. Cả làng, không cô gái nào muốn về làm vợ hai ông Cố để đẻ cho ông đứa con trai, kể cả những cô đã quá lứa, nhỡ nhàng. Ông Cố bèn bắt vợ đẻ thêm. Bà vợ bảo: “Đẻ thêm đứa nữa thì tôi chết mất”. Ông khóc tu tu, quỳ xuống lạy bà như tế sao: “Tôi van bà. Bà cứ đẻ đi, đẻ ra thì một mình bà chết, chứ không đẻ nữa thì cả tôi, cả cái nhà này, cả họ nhà tôi chết. Bà thương tôi với”. Thế là bà Cố lại có mang. Đến ngày sinh, bà chết trong đau đớn khi đứa con trai mơ ước vừa mới chào đời vài phút. Ông Cố sướng phát cuồng vì có con trai, nhưng hai ngày sau ông phát cuồng thực sự bởi cậu con trai đỏ hỏn cũng trút hơi thở cuối cùng. Ông ôm xác con chạy khắp làng rồi cứ gào lên man dại, không ra tiếng người. Chôn con xong, ông thắt cổ tự vẫn ngay trên cây đa ngoài nghĩa địa… Kể lại câu chuyện về ông Cố, người già làng tôi ngậm ngùi, nhưng chẳng ai chịu nhận ra rằng “con nào cũng là con, gái hay trai đều vậy”. Ai cũng lo đến một ngày kia mình chết đi, không kẻ chống gậy, không người hương khói, cúng thờ, rồi cũng thành ma đói lang thang vạ vật… Các cụ già chỉ có thể yên lòng sống nốt quãng đời còn lại nếu đã có sẵn ba thứ, đó là: một vuông đất xí sẵn ngoài Mả Mộc, một cỗ quan tài gác trên xà nhà và một thằng cháu đích tôn. Bởi thế, bà tôi cứ ráo riết giục bác Loan, bác Vận đẻ con trai. Bà làm như hễ có ý định đẻ con trai, thể nào đứa trẻ trong bụng cũng phải là con trai. Bà cứ lấy mình ra làm gương: “Tôi đẻ sáu bận, ba trai, ba gái, thế là cân. Cái lần có chửa thằng bố Vận đầu tiên đây này, tôi cứ nghĩ mình phải đẻ con trai để cho yên tâm. Thế là con trai. Còn chửa con Tâm, tôi lại nhủ: “Có con trai rồi, giờ cứ thêm đứa con gái nữa cho có nếp có tẻ, có đứa chấy rận…”. Thế mà cũng có người tin, phục lăn tài đẻ của bà. Thậm chí cô Mây hàng xóm, đẻ một lèo ba con vịt còn lân la sang học hỏi “kinh nghiệm đẻ” của bà. Chẳng hiểu bà “truyền bá” thế nào, cô lại đẻ thêm con vịt nữa. Bà giậm chân bảo: “Hỏng! Quan trọng là ở cái tâm của mình, chứ ông giời ông ấy mất gì mà so đo, dè sẻn, không cho lấy một mụn con giai”. Nghe đâu sau vụ ấy, mất mấy năm bà với cô Mây không nhìn mặt nhau dù ngày nào chả vài mươi lượt đi chung con ngõ nhỏ… Lúc bác Loan vợ bác Vận có cái bụng lùm lùm, bà chăm đi chùa hơn, để cầu đứa trẻ là con trai. Bà còn khăn gói theo các vãi già làng bên đi tận chùa Hương, xoa đầu tượng cậu. Người ta cười bảo: “Thiên hạ đến cầu con chứ ai cầu cháu”. Bà cãi: “Cháu mà không phải cầu à? Cháu còn quan trọng gấp mấy lần con. Nó còn thờ cúng mình về lâu về dài chứ”. Rồi bác Loan sinh con trai thật. Bà hồ hởi coi đấy là chiến công của mình. Bà đi hết làng trên xóm dưới để khoe mình thành tâm cầu khấn ra sao. Bà còn bắt bác Loan sang ở hẳn với bà để “tao còn chăm thằng cháu vàng của tao”. Bác Loan không sang vì còn vướng việc nhà thế là bà le te ôm quần áo sang ở hẳn bên ấy. Mọi bệnh tật của bà tự dưng khỏi sạch. Bà đặt tên cho cháu đích tôn là Phúc, gạt hết mọi cái tên mà ông và bác Vận đưa ra. Phúc lớn lên trong sự chăm bẵm của cả đại gia đình, nhất là của bà, dù hoàn cảnh chiến tranh, cuộc sống lúc ấy vẫn đầy những gieo neo. Bà bắt cả nhà kiêng khem cho anh đủ thứ. Thậm chí bà còn bán anh cho chùa để dễ nuôi. Tên khai sinh của anh là Phúc nhưng ở nhà bà bắt gọi tên anh là Bùn, bảo tên xấu cho ma chê không bắt. Anh Phúc được coi như là một ông vua nhỏ. Năm anh lên ba, chị Phương vừa ra đời thì bác Vận mất. Anh lên bảy thì ông mất. Bà chuyển sang ở hẳn với bác Loan. Có đồng lương liệt sĩ nào, bà lại đưa dần cho anh Phúc ăn quà hoặc muốn mua gì thì mua. Cái gì bà cũng bảo “của thằng Phúc”. Bác Loan hơi nặng lời với anh, bà đã mắng cho như tát nước. Bà bảo: “Giống má nhà tao, chúng bay đừng có mà động đến nó”. Không ít lần bác Loan và bà cãi nhau, lục đục vì anh Phúc. Ai cũng khuyên bà đừng chiều quá kẻo cháu hư, bà cứ khăng khăng: “Hư là hư thế nào”. Bà vốn đáo để và lắm lời nên ai cũng ngại. Đến mẹ tôi và bác Tâm, bác Vĩnh là con gái về khuyên, bà còn chửi cho mất mặt. Bà bảo: “Tao chỉ nhìn vào thằng Phúc mà sống thôi”.
Thế nhưng càng lớn, anh Phúc càng trở nên khó bảo, ngang ngạnh. Dưới sự bao bọc của bà, anh tự cho mình trên hết. Lên mười, anh đã ném chiếc bát vào mặt chị Yên trong lúc ăn cơm bởi rang tôm cho anh mặn quá. Vết sẹo trên thái dương của chị Yên từ đận ấy vẫn còn đến tận bây giờ.
Chị Phương út ít, gầy gò như con mèo hen thì hay bị anh mang ra làm trò tiêu khiển, trêu chọc, đánh đập, kỳ bao giờ chị Phương khóc thét lên, anh mới cười khì khì chạy đi. Bao lần bác Loan quỳ lạy bà: “Bà để con dạy cháu, cho nó nên người”. Bà gào lên: “Ối giời ơi! Chị đừng đổ tiếng ác cho tôi. Chị có con thì chị dạy. Con chị nhưng cháu tôi. Dạy thế nào thì dạy, chứ chị mà động đến cái lông chân của nó là không xong với tôi đâu nhá”. Càng cuối đời, quan hệ của bà và bác Loan càng trở nên tồi tệ. Bác Loan cũng chán, đành tặc lưỡi làm ngơ. Bà mất năm anh Phúc mười sáu tuổi. Bà cố dặn lại: “Đừng làm khổ thằng bé. Phải cho nó bằng bạn bằng bè”. Rồi bà dúi cho anh Phúc năm chỉ vàng mà bà ki cóp suốt cuộc đời, xong mới chịu nhắm mắt.
Tốt nghiệp cấp ba, năm chỉ vàng của bà giúp anh Phúc có một tháng vi vu tận Hà Nội, vừa thi đại học, vừa ăn chơi thoải mái. Anh chọn thi toàn trường oai: báo chí, mỹ thuật, dĩ nhiên là trượt cả hai. Ở nhà anh lao vào đàn đúm với tụi thanh niên lười lao động và chăm gây gổ. Cuộc đánh nhau nào trong làng trong xã cũng có mặt anh Phúc, cũng do anh là chủ trò. Lúc này, bác Loan được “tự do” dạy dỗ anh nhưng bác đã trở nên bất lực. Mẹ tôi sang khuyên, anh dửng dưng: “Kệ cháu. Cô về mà dạy cái lũ con cô ấy”. Mẹ tức tím mặt, còn bác Loan chỉ biết ôm mẹ khóc. Không ngày nào nhà không có chuyện vì anh Phúc. Hơi một tí là anh ấy đập phá, hơi một tí là anh chửi bới. Hôm đám cưới chị Yên, anh còn vác ghế đập toác trán một thanh niên bên họ nhà trai, chỉ vì một câu nói đùa nào đó. Còn chồng chị Yến cũng một lần bị anh đuổi: “Vác xác về nhà mày mà lên lớp với cả họ nhà mày” khi được khuyên giải là đừng nên gây gổ đánh nhau. Hai ông anh rể thề với nhau không bao giờ thèm nhìn đến thằng em vợ trời đánh nữa.
Mọi chuyện về anh Phúc trở nên tồi tệ hơn khi bác Loan ngày một yếu, còn anh cứ nằng nặc đòi bán nhà, bán đất lấy tiền ra phố huyện để mở cửa hàng. Bác Loan không chịu, anh hằn học: “Tôi mới là đứa thừa tự nhá. Đất của tôi, nhà của tôi, chứ đất nào của bà mà bà ngăn cấm. Bà tôi dặn thế nào, bà có nhớ không?”. Bác Loan uất đến ngất đi. Anh Phúc cứ ngang nhiên rêu rao bán đất, bán nhà, nhưng không ai dám mua. Anh còn rao bán cả đất của ông bà nơi có nhà thờ họ. Mẹ tôi, bác Tâm, bác Vĩnh kéo về làm tanh bành một trận: “Mày chỉ có quyền thừa kế của bố mẹ mày, chứ làm gì có quyền thừa kế của bố mẹ tao mà vớ vẩn. Đụng đến đất hương hỏa tổ tiên, chúng tao đập chết đấy. Láo nó vừa vừa thôi”. Nhìn bốn ông em trai lực lưỡng con các cô, anh Phúc đâm chờn, chỉ dám hậm hực lầm bầm gì chẳng rõ. Nhưng bắt đầu từ đó anh không bao giờ đến nhà tôi cũng như nhà bác Tâm, bác Vĩnh. Rồi gặp mẹ tôi và các bác ngoài đường, anh cũng không chào nốt, coi như người dưng không biết. Khi bác Loan ốm nặng, mẹ tôi đi chợ về ghé vào cho bác đồng quà, thấy anh Phúc vẫn lem lẻm chửi mẹ vì tội không chịu bán đất lấy tiền cho anh mở cửa hàng. Bực quá, mẹ mắng anh và tát anh một cái. Thế là anh đạp tung quang gánh của bà ra sân, chửi luôn: “Bà cút đi, bà cút khỏi nhà tôi. Không cô cháu gì cả”. Chị Phương ra can, anh vồ đòn gánh phang chị hai phát, làm chị ngã dúi dụi, mẹ lăn vào can, vết đòn đánh đập trúng tay bà, đau đến rụng rời. Cả xóm kéo đến xem, anh chửi tất. Thế rồi chỉ hai ngày sau bác Loan qua đời.
Không còn ai ngăn cản việc bán đất bán nhà, anh Phúc lại tiếp tục rêu rao. Anh phát giá thật rẻ, thế là có kẻ nhảy vào mua. Mẹ tôi lại lọm cọm đến nhà anh chàng mua đất, nỉ non phải trái, đại ý khuyên anh ta chớ mua. Mẹ lo bán nhà rồi, chị Phương sẽ bị đẩy ra lề đường. Anh chàng mua nhà cười nhạt: “Thuận mua vừa bán rồi bác ạ. Mà… đất của bác đâu mà bác giữ. Cháu không mua thì có đứa khác mua”. Mẹ đành lủi thủi ra về. Rồi chuyện ấy cũng đến tai anh Phúc. Anh tới tận cổng nhà tôi chửi đổng: “Ai khiến mà cứ can thiệp vào chuyện gia đình nhà người ta. Rõ là cái quân rỗi hơi”. Mẹ tôi lại bầm gan tím ruột, còn anh Phong tôi thì cáu um nhà: “Mẹ thấy chưa? Con đã bảo mẹ đừng mua dây buộc mình nữa…”.
Anh Phúc bán được nhà, ôm tiền ra phố huyện thuê một ki-ốt để kinh doanh hàng điện tử. Chị Phương theo ra được ít ngày không hiểu sao lại tìm về, đến nhà khóc với mẹ tôi xin ở nhờ để còn lo việc đồng áng. Mẹ gặng: “Nó lại đánh mày phải không? Sao mày không báo công an để người ta bỏ tù cái quân bạc ác đấy đi?”. Chị chỉ khóc, rồi sau mới sụt sùi: “Cháu nghĩ anh em bố mẹ đẻ ra, khúc ruột trên, khúc ruột dưới, ai nỡ đẩy nhau đi tù…”. Chị ở nhà tôi được đến mùa. Lúc thu hoạch lúa xong xuôi, anh Phúc sấn sổ về túm tóc chị: “Mày ra ngay ngoài huyện. Ai cho mày về đây. Thóc lúa đâu rồi?”. Rồi anh lu loa với mẹ tôi: “Mồ hôi nước mắt của anh em tôi, bà đừng có nuốt không”.
Non tấn thóc được chở hết đi, mẹ tôi gạt nước mắt nhìn chị Phương lủi thủi bước ra khỏi cổng. Ít lâu sau thì được tin chị bỏ đi mất tích. Rồi lại hơn năm sau, mẹ tôi nhận được lá thư nhòe nước mắt gửi về từ Trung Quốc của chị Phương. Chị kể không chịu được ông anh tàn nhẫn nên đã theo người ta đi buôn biên giới, ngờ đâu rơi vào tay lũ buôn người. Giờ chị phải làm vợ một lão già hơn sáu mươi. Thôi thì xác định sống lay lắt quê người, chết cũng làm ma xứ lạ. Chị chỉ van xin mẹ tôi đến ngày giỗ bố mẹ chị thì ra mộ thắp giùm chị nén hương. Mẹ tôi đọc thư, lại khóc rưng rức cả tuần dù ra ngoài bà vẫn làm ra vẻ nhẹ nhõm, tươi tỉnh…
Anh Phúc chết năm ngoái, rất đột ngột. Không quen kinh doanh buôn bán, anh thua lỗ, tiêu đến đồng tiền cuối cùng rồi vất vưởng lang thang không cửa không nhà. Mẹ tôi, bác Tâm, bác Vĩnh lại một lần nữa thử tìm gặp cháu nhưng chỉ nhận được cái phẩy tay: “Tôi không quen các bà”. Nghe nỉ non hơn thiệt chán, anh trừng mắt quát lại cả ba bà cô: “Cũng tại các bà, tôi mới khốn nạn thế này. Không có các bà tôi vẫn sống, cô cháu gì”. Cả ba bà cô ra về trong lời thề dứt tình lần thứ mấy mươi chẳng rõ. Nghe đâu sau đó anh Phúc lang thang với toàn dân trộm cắp ngoài thị trấn. Chưa kịp bị công an bắt thì vì uống rượu say trổ tài phóng xe máy lao vào gốc cây bên đường bẹp cùng xe máy. Chính ba bà cô bị chối bỏ lại là những người đứng ra lo ma chay và đền tiền chủ chiếc xe máy. Tôi bận không thể về được, chỉ nghe anh Phong kể lại: “Mẹ đến lạ! Cứ khóc ầm ầm như mưa. Lúc sống, anh ta coi mẹ ra gì…”. Chẳng hiểu sao lúc ấy tôi lại thở phào. Thôi, thế cũng xong một kiếp người…
Tôi và thằng Hiển thắp hương xong đã gần trưa. Trên đường về thằng bé hỏi: “Cô ơi, bà cứ bảo cháu là: Con người sống phải có cái Tâm, cái Đức. Thế cái Tâm, cái Đức là gì hở cô”. Tôi giảng giải cho nó: “Cái Tâm, cái Đức là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà con người có được. Nó là sự hướng thiện, biết tránh xa cái độc ác, xấu xa. Biết yêu thương nhau và nghĩ đến người khác. Tóm lại cả cuộc đời không được làm điều xấu”. Thằng bé băn khoăn: “Thế thì khó nhỉ, cô nhỉ!”. Tôi nghiêm trang: “Khó nhưng vẫn làm được. Mình tốt với người khác thì người khác sẽ tốt với mình”. Thằng Hiển gật gù hệt ông cụ non: “Cháu hiểu rồi cô ạ”. Nhưng nó lại giật tay tôi lắc đầu: “Thế như cháu đã là người tốt chưa hả cô?”.
Nguyễn Thị Việt Nga