logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 03/08/2013 lúc 07:44:12(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 23,707

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
UserPostedImage
Ông đồ xưa (DR)

Hồi đầu thế kỷ XIX, triều đại nhà Nguyễn được thiết lập ở Việt Nam với Gia Long là vị hoàng đế đầu tiên.

Triều Nguyễn đã phục hưng Nho Giáo và lấy học thuyết Khổng Mạnh làm hệ tư tưởng chính thống. Có

thể nói rằng, dưới Triều Nguyễn, Nho Giáo giữ vị trí độc tôn trong xã hội, từ giáo dục đến chính trị.

Nhưng cũng chính dưới thời Nguyễn, Nho Giáo đã bị sụp đỗ và dần rơi vào quên lãng.
Nho Giáo bắt đầu được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc Thuộc, thế nhưng phải chờ đến thế kỷ thứ 10

thì các triều đại phong kiến Việt Nam mới dần chú ý đến Nho Giáo. Từ thời nhà Lý đã thấy nhà vua lập

Văn Miếu thờ Khổng Tử và tiền hiền ở Thăng Long. Trong lúc Phật giáo còn là quốc giáo thì suốt thời

Lý-Trần thực lực của Nho Giáo và nho gia ở triều đình và trong dân càng ngày càng phát.

Nhà Nguyễn chấn hưng Nho Giáo

Nho giáo bắt đầu chiếm lĩnh vai trò chủ đạo trong nhà nước Việt Nam từ triều Hậu Lê (thế kỷ 15) sau khi

tầng lớp Nho sĩ dân tộc đã lập công lớn trong cuộc kháng chiến dài 20 năm đánh đuổi quân Minh xâm

lược. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, về mặt văn hoá chính trị, có

thể được xem là cái vương miện để trao cho Nho Giáo Việt Nam.

Thế nhưng, đến thế kỷ 16 thì Nho Giáo bắt đầu lâm khủng hoảng. Trong giai đoạn này, tình hình chính trị

trong nước hêt sức rối ren, các giềng mối đạo đức xã hội bị đảo lộn. Xung đột liên tiếp xảy ra, hết

Lê-Mạc phân tranh đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, nhiều bề tôi đã giết vua, cảnh huynh đệ tương tàn trên

thượng tầng xã hội cũng không phải hiếm ...

Đến năm 1802, Gia Long giành thắng lợi cuối cùng và lập nên Triều Nguyễn. Đây là triều đại phong kiến

cuối cùng trong lịch sử của Việt Nam tính đến hiện tại. Nhà Nguyễn ra sức chấn hưng Nho Giáo. Trong

các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Nho Giáo Việt Nam giữ vai trò độc ton trong xã hội,

từ chính trị đến giáo dục.

Cụ thể Nhà Nguyễn đã chấn hưng Nho Giáo như thế nào, Chuyên gia lịch sử văn hóa Việt Nam, Giáo sư

Nguyễn Khắc Thuần tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ minh thị đôi điều về vấn đề này :

« Trước hết, về phía nhà nước, thì nhà Nguyễn đã coi Nho Giáo là ngọn cờ tư tưởng chính thống của

triều đại mình. Và vị trí đó khiến cho Nho Giáo trở nên rất quan trọng.

Trong giáo dục và thi cử, thì Nho Giáo càng có vị trí cao hơn nữa. Trước hết, Nho Giáo được đổi mới

theo chiều hướng thiết thực hơn, chứ không còn thời kì lạc hậu như trước nữa. Nhà Nguyễn đã cho thay

đổi hệ thống học vị. Và chúng ta biết, đây là một sự thay đổi khá mạnh mẽ so với trước đó. Những người

đỗ Sinh đồ trước đây thì nhà Nguyễn gọi là Tú Tài, và cách đổi gọi này bắt đầu từ năm 1829, tức năm

Minh Mạng thứ 10.

Nhà Nguyễn cũng không lấy đỗ Trạng nguyên, mà đổi Trạng nguyên thành Đình nguyên. Ví dụ như Phan

Đình Phùng là người đỗ Đình nguyên dưới thời Nguyễn. Nhà Nguyễn cũng đặt ra một học vị mới trong

khoa thi Hội, đó là học vị Phó bảng. Nhiều nhân vật nổi tiếng đã từng đỗ Phó bảng dưới thời Nguyễn như

: Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc.

Nhà Nguyễn cũng đã mở rộng qui mô giáo dục, khác hẳn với trước. Thời Nguyễn, giáo dục Nho học

được áp dụng trên toàn cõi Việt Nam, từ Bắc chí Nam. Ở đây, cũng chỉ có một nền giáo dục duy nhất,

đó là giáo dục Nho học. Cả nước lúc bấy giờ có đến 7 trường thi hương, và tất cả các khoa thi hội đều

được tổ chức ở kinh đô Huế.

Nhà Nguyễn cũng đã trọng dụng những người đỗ đạt. Do đó, các thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị

vàTự Đức, nhìn chung Nho Giáo rất phát đạt, và đã thật sự có vị trí lớn trên vũ đài chính trị và tư tưởng

nước nhà ».

Nguyên nhân Nho Giáo nhà Nguyễn sụp đổ

Thế nhưng đến cuối đời Tự Đức, thì Nho Giáo lại lâm cảnh khó khăn, nền giáo dục Nho Giáo bắt đầu bị

thử thách. Và kết quả là, vào năm 1919, nền giáo dục Nho Giáo tại Việt Nam đã chính thức cáo chung.

Nguyên nhân là do đâu ? Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần phân tích:

« Từ cuối thời Tự Đức, tình hình chính trị của đất nước bắt đầu có những biến đổi rất mạnh mẽ, rất sâu

sắc, gây ảnh hưởng trực tiếp đối với Nho Giáo. Đó là thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta. Nhà

nước phong kiến sụp đổ. Chúng ta biết rằng, nhà nước phong kiến là đỉnh cao tôn thờ của nhà Nho.

Người ta đi học Nho là để ra phò vua giúp nước. Và người ta lấy việc trung quân làm lý tưởng.

Vậy mà bấy giờ, vua không còn xứng đáng đại diện cho quốc gia, triều đình cũng không còn xứng đáng

đại diện cho quốc gia. Cho nên lý tưởng của nhà Nho theo đó mà sụp đổ. Đây là nguyên nhân chính trị.

Nhưng nguyên nhân chính trị đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự sụp đổ của Nho giáo.

Về khách quan, thì Pháp cũng đã truyền bá một nền giáo dục mới. Và chính nền giáo dục mới này đã tạo

ra một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với giáo dục Nho học nói riêng và đối với vị trí của Nho học nói chung.

Phải khách quan mà nói rằng, nền giáo dục của Pháp có những điểm rất hấp dẫn. Ví dụ như việc người

Pháp dùng văn tự La Tinh. Chữ Hán rơi xuống vị trí ngôn ngữ phụ. Mẫu tự La Tinh là một văn tự hoàn

toàn mới mẽ, tiến bộ, tích cực. Chúng ta thấy rằng, một người giỏi học cả năm sáu năm chưa chắc đọc

được sách chữ Hán. Nhưng một đứa trẻ chỉ cần học một tiếng đồng hồ là có thể ghép vần và đọc được

tiếng Việt. Đọc được, còn hiểu được hay không thì đó là chuyện khác, nhưng dù sau cũng là đọc được.

Còn nếu học tiếng Hán, thì học chữ nào biết chữ đó. Bởi vậy, người thông minh được gọi là người nhiều

chữ.

Người Pháp cũng truyền bác cách học mới, và hoàn toàn khác với cách học của các trường làng của các

nhà Nho. Nền giáo dục mà Pháp du nhập, tất nhiên về bản chất, đó là một nền giáo dục thực dân. Nhưng

ở đây chúng ta cũng phải thừa nhận những tác dụng khách quan nằm ngoài ý muốn của người Pháp. Đó

là nó tạo ra cái mới trong nhận thức của người học. Và ở đây, chúng ta cũng phải thừa nhận, Pháp đã

truyền bá một loạt các ngành khoa học mới vào nền giáo dục của chúng ta. Như khoa học tự nhiên, khoa

học kỹ thuật. Và ngay cả khoa học xã hội, thì người Pháp cũng giảng dạy theo cách của họ, mới hơn,

hiện đại hơn, và cũng có những cái đáng suy ngẫm hơn.

Về mặt chủ quan, thì rõ ràng, Nho Giáo đã tự bộc lộ những hạn chế không thể nào khắc phục được. Đây

chính là khó khăn khiến cho Nho Giáo bị sụp đổ nhanh chóng. Nho Giáo chỉ thiên về khoa học xã hội và

nhân văn mà ít chú ý đến các khoa học khác. Nho Giáo đã quảng bá và cổ súy mạnh mẽ cho tư tưởng

hoài cổ trong lúc xã hội đang khao khát vươn lên để theo kịp các nước xung quanh. Và Nho Giáo đã thể

hiện tính cực đoan. Chính sự cực đoan đó đã khiến cho Nho Giáo bị đẩy vào một vị trí hoàn toàn bất lợi.

Lúc bấy giờ cũng có một điều đáng chú ý nữa, đó là sự đóng cửa vốn là bản chất của giai cấp phong

kiến, thì lúc này nó đã khiến cho Nho Giáo quay lưng lại với cái mới. Rõ ràng đóng cửa là hợp với qui luật

của giai cấp phong kiến. Nhưng hợp với qui luật của giai cấp phong kiến thì không có nghĩa là hợp với

qui luật vươn lên của lịch sử. Lúc bấy giờ là lúc mà người ta cần chấp nhận cái mới, thì Nho Giáo lại chủ

trương đóng cửa. Và đây chính là nguyên nhân gây tác hại từ bên trong của chính Nho Giáo, khiến cho

nó bị sụp đổ nhanh chóng. Năm 1918, khoa thi hương cuối cùng của nền thi cử Nho Giáo Việt Nam đã

được tổ chức. Và khoa thi hội năm 1919 cũng là khoa thi hội cuối cùng của nền giáo dục Nho Giáo Việt

Nam.

Và từ đó thì giáo dục Nho học hoàn toàn bị đóng cửa. Số người đọc được chữ Nho ngày càng ít. Số

người hiểu được triết lý của Nho Giáo lại càng ít hơn. Và đặc biệt, những giá trị văn hóa của tổ tiên kết

tinh trong các trước tác viết bằng chữ Hán thì không phải ai cũng sử dụng được. Đó là sự sụp đổ cí tính

qui luật. Nhưng đó cũng là sự sụp đổ gây ra không ít thiệt hại cho chúng ta ngày nay ».

Kế thừa mặt tích cực của Nho Giáo

Nền giáo dục Nho Giáo đã lùi xa, Nho Giáo đã bị xem là lạc hậu. Thế nhưng, có phải tất cả những cái gì

thuộc về Nho Giáo đều không còn hữu dụng. Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần nhận định :

«Tất nhiên Nho Giáo sụp đổ là hoàn toàn hợp với qui luật, nhưng điều đó không có nghĩa là Nho Giáo

hoàn toàn bị khép lại trong dĩ vãng, và cũng không có nghĩa là nó không còn điều gì đáng để chúng ta kế

thừa. Ngược lại, ngày nay, chúng ta cần phải kế thừa những giá trị tíc cực do chính các nhà Nho để lại.

Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, một bộ phận cấu thành

của tư tưởng Hồ Chí Minh đã ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị tích cực của Nho Giáo, Phật Giáo,

Đạo Giáo, Thiên Chúa Giáo…

Chúng ta kế thừa Nho Giáo phong thái dung dung của các nhà Nho. Kế thừa sự điềm tỉnh trước mọi biến

cố. Và đặc biệt chúng ta kế thừa tinh thần coi trọng gia giáo mà Nho Giáo để lại. Chúng ta biết rằng, một

xã hội chỉ có thể được bình ổn và giữ được kỉ cương, khi mà gia giáo được bảo vệ và được đề cao.

Thế thì Nho Giáo có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng những thiết chế về đạo đức gia đình. Và

trong việc xây dựng, đề cao nền giáo dục gia đình. Gia đình mà yên ổn, thì xã hội mới có thể đi lên

được. Cho nên Nho Giáo tuy là đã lạc hậu, tuy là nó không thể nào trở lại như thời xưa nữa, nhưng chúng

ta cần phải nghiên cứu để kế thừa những giá trị tích cực và tốt đẹp của Nho Giáo để lại. Đó có lẽ cũng là

cái mệnh lệnh đối với những người làm công tác nghiên cứu văn hóa Việt Nam hiện nay ».

Bài học lịch sử từ sự sụp đổ của Nho Giáo ?

Nho Gia có thuyết « cái quan định luận », tức là khi một nguời đã chết và nắp quan tài đã đậy lại rồi, thì

mọi người mới có thể bình luận đúng sai về người đó. Gần một thế kỷ sau khi nền giáo dục Nho Giáo

cáo chung tại Việt Nam, chúng ta thấy rằng, như phân tích của giáo sư Nguyễn Khắc Thuần nói trên, thì

một trong những nguyên nhân cốt lõi không thể phủ nhận được của sự lùi bước của Nho Giáo, đó là sự

bảo thủ của nhà cầm quyền và sự khép kín của Nho Giáo nhà Nguyễn.

Nhà Nguyễn đã phát huy tối đa những mặc bảo thủ nhất của Nho Giáo, nền giáo dục Nho Giáo thời nhà

Nguyễn chỉ nhắm đến việc học để làm quan, các nhà Nho thì rơi vào cái học tầm chương trích cú, khư

khư ôm lấy những học thuyết cách đây mấy ngàn năm, cứ cho rằng xưa hơn nay, cứ cho rằng Nho Giáo

là học thuyết tiến bộ nhất của nhân loại.

Cần phải thấy rằng, không phải tất cả các nhà Nho thời Nguyễn điều bảo thủ. Khi nền độc lập quốc gia bị

đe dọa, khi đất nước lộ rõ sự lạc hậu, khi nền học thuật nước nhà không theo kịp thời cuộc, thì cũng có

những nhà Nho bắt đầu nhận thấy sự cần thiết phải cải tổ.

Nguyễn Trường Tộ đã dâng lên triều đình đến gần 60 bản điều trần chỉ rõ thực trạng yếu kém của nước

nhà và đề nghị nhà cầm quyền tiến hành cải cách. Theo bước Nguyễn Trường Tộ, nhà Nho Nguyễn Lộ

Trạch cũng không ngừng dâng lên triều đình những kiến nghị cải cách để chấn hưng đất nước, để theo

kịp thời đại.

Trong lĩnh vực giáo dục, nếu Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch tập trung phê phán nội dung giáo

dục Nho Giáo lạc hậu, thì nhà Nho Đặng Huy Trứ đặc trọng tâm kiến nghị của mình vào phương pháp

giáo dục. Ông kiến nghị bỏ lối học tầm chương trích cú, và đề nghị một lối học kích thích sự suy nghĩ và

sáng tạo của học trò.

Thế nhưng, triều đình Nhà Nguyễn lúc bấy giờ đa phần quan lại đều là những nhà Nho bảo thủ. Họ cứ

khư khư ôm lấy cái cũ, họ hành xử theo kiểu « thủ cựu bài tân ». Ngay như khi đại thần Phan Thanh Giản

đi sứ bên Pháp về kể chuyện đèn điện hay tàu hỏa bên Pháp, thì các quan trong triều con cho rằng cụ

Phan kể chuyện viễn vông để lừa phỉnh mọi người.

Triều thần bảo thủ đến mức mà ngay cả một ông vua bảo thủ như Tự Đức đôi khi còn phải khéo léo

nhắc nhở. Trong cái biển người bảo thủ đó, thì rõ ràng đề nghị canh tân của một vài nhà Nho thức thời

cũng giống như là muối bỏ biển mà thôi.

Nói tóm lại, sự thất bại của Nho Giáo ở Việt Nam hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có một nguyên nhân

không thể nào chối cãi, đó là sự bảo thủ và cực đoan của nhà cầm quyền. Trong bối cảnh thế giới hiện

tại, đây là một bài học đắc giá cho tất cả các nhà cầm quyền trên thế giới.
Theo RFI
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.238 giây.