Các nước Âu Mỹ, giờ làm việc mỗi ngày thay đổi theo mùa. Mùa Đông bắt đầu và kết thúc giờ làm việc muộn hơn, mùa hạ ngày dài nên sớm hơn. Đồng hồ có thể vặn lên hay xuống một chút nhưng số giờ làm việc vẫn tám tiếng một ngày, buổi trưa nghỉ ba mươi phút. Khi đến VN, các công ty, văn phòng của nước ngoài phải thay đổi giờ làm việc của họ theo tập quán địa phương là từ bảy giờ rưỡi sáng đến năm giờ chiều bao gồm một tiếng rưỡi nghỉ trưa. Nhiều người Việt ở hải ngoại lâu về quê quên mất thói quen này. Họ thường đi chơi thông tầm. Buổi sáng bước chân ra khỏi nhà, ăn trưa ngoài đường, la cà đến tối mịt ăn tối, rồi ca nhạc, họp mặt đến giữa đêm hết tiết mục mới về trong lúc tên bạn VN đi cùng đến khoảng mười hai giờ trưa là ngáp lên ngáp xuống như thiếu… thuốc! Có lẽ VN là xứ nhiệt đới, buổi trưa quá nóng nực, cố làm việc cũng chẳng lợi mấy nên chẳng thà nghỉ ngơi một giấc ngắn, đến chiều tỉnh táo làm việc hăng hái hơn.
Cũng theo thói quen, bữa trưa của người đi làm không qua loa. Ổ bánh mì, gói xôi… thường là bữa của sinh viên ít tiền. Mặc dù nhiều cửa hàng thuộc hệ thống bữa ăn nhanh theo kiểu Tây phương khá phát triển ở thành phố như KFC, Jollibee… pizza, hot dog đầy dẫy khắp nơi nhưng thật ra món ăn Tây phương vẫn không hạp lắm, vào những quán đó để thưởng thức một không khí và hương vị hương xa thì đúng hơn, nhất là thời buổi này khi thức ăn nhanh nhiều đạm, nhiều béo, ít rau… bị xem là nguyên nhân của béo phì thì bữa cơm cổ truyền vẫn ngon miệng và hợp khẩu vị người Việt hơn.
Trước kia, người đi làm thường xách gà mên cơm đi, trong đó có ba bốn ngăn đủ cho cơm canh đủ loại, nếu đơn giản thì chỉ một “gô” cơm với thức ăn để ngay bên trên. Bây giờ nhiều người không biết “gô” là gì. Đó là lon sữa bột hiệu Guigoz, sữa uống hết, lon nhôm tốt quá bỏ đi thật uổng, giữ lại dùng đựng cơm, đựng nước đều tiện. Lon gô đựng cơm đó đã tồn tại một thời gian rất dài, đến nỗi “Gô” đã trở thành một danh từ chung, bây giờ thì “gô” đã lùi vào ký ức, nhà nào còn giữ làm kỷ niệm, vài chục năm nữa biến thành đồ cổ chưng trong bảo tàng chứ chẳng chơi
Thức dậy từ sáng sớm để nấu nướng bới cơm mang đi thật mất công nên về sau các bà các cô trước khi đi làm ghé chợ mua ít thức ăn. Sẵn ổ cắm điện ở góc văn phòng, chị em nhân tiện xào xào nấu nấu, vừa ngồi bàn giấy làm việc vừa canh chừng nồi cơm hoặc chảo trứng kê dưới sàn nhà, khuất sau chiếc tủ đựng hồ sơ. Đến bữa trưa, cơm nóng canh sốt sẵn sàng dọn ra, mọi người xúm xít lại ăn uống ríu rít vô cùng vui vẻ.
Dù sao, sau 75, tiết mục cơm nước như vậy có vẻ phân biệt quá. Đến bữa kẻ ăn thịt, người dùng rau thật không được “bình đẳng”, cứ điện nước chung tha hồ lạm dụng nấu nướng nên bếp ăn tập thể từ Bắc được mang vào áp dụng cho miền Nam. Thế là nhà bếp nhất nhất thành lập là phần không thể thiếu ở mỗi cơ quan xí nghiệp. Một biên chế quý báu được dành riêng cho bà bếp. Đến bữa ai nấy xuống căng-tin để ăn cùng xuất ăn các món như nhau. Đó là giai đoạn khó khăn, bếp ăn tập thể được trợ giá nên chẳng ai tội gì bỏ qua. Thế nhưng, thời kỳ bao cấp dần dần trôi qua. Các cơ quan bắt đầu hạch toán độc lập nên không muốn phải chi thêm một khoản cho bếp núc, lại thêm để tinh giảm biên chế, lúc ấy đã có vài trường hợp tự tử vì bị cho nghỉ việc, cái ghế của bà bếp là chỗ yếu nhất, là người đầu tiên được mang ra tế thần trong công cuộc tìm bằng đủ chỉ tiêu giảm biên chế từ cấp trên giao xuống. Bếp cơ quan bị xóa sổ nhưng để không mang tiếng “con thơ bỏ chợ” thì các cơ quan đều phát cho nhân viên mỗi tháng một khoản tiền được gọi là “tiền ăn trưa”. Thực chất đây là một trong số các lợi tức thêm của nhân viên ngoài lương chính thức nên tùy ngân quỹ ở mỗi nơi dồi dào hay không mà “tiền ăn trưa” ít hay nhiều.
Dĩ nhiên không thể quay trở về thời công chức sáng xách gô đi, chiều xách gô về. Lon gô đã thực sự rút lui, mất dấu sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình trong một giai đoạn xã hội khá dài. Quán cơm ở thành phố mọc lên rất nhiều đáp ứng nhu cầu bữa ăn trưa của dân đi làm. Tới giờ đó, Saigon đi chỗ nào cũng gặp các quán hay sạp cơm bình dân. Sạp thường chỉ dành cho người lao động, dân văn phòng jupe ngắn, áo dài tha thướt, giày cao gót lộp cộp không thể ra vỉa hè ngồi ghế đẩu mà nhất thiết nên vào quán.
Đôi khi chẳng phải người ta ngại vỉa hè bình dân mà vì những chỗ như vậy thường không yên ổn do các đợt “dẹp lòng lề đường”. Đang ngồi ăn uống, xe cảnh sát rề rề từ đằng xa, chủ hàng chớp mắt quơ hết bàn ghế táo tác chạy mất tiêu để khách đứng trơ trọi một mình với đĩa cơm trên tay giữa vỉa hè trống rỗng. Nhiều quán cơm lâu đời nổi tiếng như quán bà Cả Đọi từ giã lối cầu thang hẹp dẫn lên quán trên con đường Nguyễn Huệ nay đã san ra thành ba chi nhánh Đồng Nhân vẫn đông đáo để, quán Minh Đức,…
Không chỉ thụ động đón khách tại chỗ, các quán cơm còn cho nhân viên mang cơm phần đến từng nơi. Chỉ cần một cú phone chọn sẵn món ăn theo ý thích từ sáng sớm hay trước mười lăm phút. Vừa đúng giờ nghỉ trưa, nhân viên quán cơm chạy xe máy đến từng cơ quan, gõ cửa từng phòng giao cơm hộp từng người, kèm thêm ly canh và bịch nước chấm. Giá mang đến tận nơi như thế cũng không đắt hơn tại chỗ bao nhiêu, khoảng ba mươi hay ba lăm một phần. Những buổi họp hành, hội nghị vì thế nhẹ nhõm hơn rất nhiều đối với phần ăn trưa. Chỉ là những quán cơm nhỏ bé nhưng dù được đặt mấy chục hay cả trăm phần, đều được giao tận nơi chu đáo với giá cả phù hợp.
Quận Một là nơi tập trung nhiều văn phòng cao cấp nên cũng hình thành nơi đây một loại khách ăn cơm trưa cao cấp hơn. Không phải những quán cơm ồn ào tiếng nói chuyện, sực nức lưu cữu mùi dầu mỡ chiên xào kho nấu và nóng chảy mỡ suốt tứ thời bát tiết trong năm. Những năm gần đây, Saigon xuất hiện những tấm bảng hiệu “cơm trưa văn phòng”. Đây vốn không phải là những quán cơm chính cống mà chỉ là cà phê, quán bar, ca nhạc… Chủ quán tận dụng thời gian buổi trưa vắng vẻ để mở rộng hoạt động lấy thêm khách.
Những quán này đương nhiên máy lạnh mát mẻ, bài trí đẹp đẽ, nhạc êm dịu, chén bát sạch sẽ và hầu bàn chuyên nghiệp. Thức ăn không cầu kỳ lắm nhưng chắc chắn ngon hơn với những món không nằm trong quán bình dân như cá bống trứng kho tiêu, canh cua rau nhút… Cơm bình dân khá phong phú cả chục món nhưng ngày nào cũng chỉ bấy nhiêu món, cơm trưa văn phòng ít thôi, chỉ vài món nhưng lại thay đổi mỗi ngày và chế biến ngon hơn. Thực đơn thứ hai, thứ ba, thứ tư… đều có sự thay đổi. Cũng cá, cũng sườn nhưng là sườn nướng ngũ vị, cá trê chiên dòn… canh xà lách soong, canh cà chua… măng xào … Các món ăn được trau chuốt, nêm nếm ngon lành, trình bày hấp dẫn. Một bữa cơm trưa văn phòng trước kia giá từ mười hai đến mười tám ngàn đồng. Gần đây do xăng tăng liên tiếp mấy đợt, giá cả mọi thứ nhất tề tăng phi mã nên cơm trưa cũng nhảy lên bốn, năm chục ngàn một bữa gồm ba món: kho, xào và canh không kể tráng miệng và trà đá miễn phí. Đương nhiên kêu các thức uống thuộc về “quán nước”, không phải “cơm trưa văn phòng” thì giá khá cao tùy loại quán. So với lề đường một đĩa cơm khoảng hăm lăm ngàn và cơm “a lô” mang đến cơ quan khoảng ba chục thì giá này hơn hẳn. Dù sao cũng rõ ràng không mắc so với khung cảnh và tiện nghi được phục vụ.
Một số cơm trưa văn phòng phát triển đến mức có thể tổ chức buffet như vẫn giá như thế nhưng muốn ăn bao nhiêu lấy tùy thích. Còn buffet ở Quê Hương giá bảy, tám chục ngàn, các khách sạn cao cấp giá hai, ba trăm… không dành cho nhân viên văn phòng bình thường, những nơi khác dao động dưới một trăm ngàn ngàn có thể lựa chọn vài chục món phong phú kể cả tráng miệng
Các quán cơm trưa văn phòng lịch sự, có thể đọc sách báo, trò chuyện, xem TV, mang laptop đến làm việc hay hẹn hò tán dóc. Nhiều mối tình văn phòng đã diễn ra trong không gian thân mật, đẹp đẽ này, giá không đắt nên thu hút khá đông thực khách thường ngồi tận dụng khung cảnh mát mẻ, thư giãn của quán cho đến hết giờ nghỉ. Tuy nhiên, dù Tân Bình, Thủ Đức… cũng có nhiều văn phòng, cũng xuất hiện những quán cơm sạch sẽ cho “dân cổ trắng” nhưng ít thấy loại “cơm trưa văn phòng” đặc trưng như ở trung tâm thành phố, tập trung đông nhất ở quận Một và quận Ba.
Các quán này có điểm đặc biệt là giờ ăn chỉ đúng y một tiếng rưỡi nghỉ trưa. Đúng mười một giờ hai mươi, bữa ăn mới được dọn ra, nếu bạn đến sớm hơn mặc tình ngồi uống nước mà đợi, quá một giờ rưỡi cũng không dọn cơm. Trước và sau giờ ăn trưa đó, khi nhân viên quay về sở làm, không khí lại trở về sự yên tĩnh, nhẹ nhàng của quán cà phê. Để thu hút khách tối đa, một số quán như dành riêng một gian phòng mát rợi với cách xếp đặt đi cùng những chiếc bàn nhỏ là ghế nệm dài kê sát tường với nhiều gối nhỏ dựa lưng. Vì thế sau khi dùng cơm xong, thực khách có thể nằm lăn ra ngả lưng tại chỗ chợp mắt được một giấc ngắn hết sức khoan khoái.
Số lượng người ngoại quốc làm việc, lưu trú ở Saigon ngày càng đông tạo ảnh hưởng rõ rệt nơi đây cách sinh hoạt theo Âu Mỹ. “Cơm trưa văn phòng” trở nên phổ biến, ngày càng quen thuộc, đã phản ảnh khả năng thích nghi mau chóng của người dân Saigon sôi nổi, khiến thành phố bao giờ cũng thể hiện rất rõ đặc tính khai phá của mình ở sự đổi thay thích ứng đầy mới mẻ.
Saigon cô nương