NGUYỄN THANH BÌNH chào đời tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Bắc, nơi là căn cứ địa của Việt Minh. Gốc gác gia đình Bình là dân Nam Bộ và “tập kết” ra Bắc năm 48. Lúc Hội Nghị Genève đang diễn ra ở Thụy Sĩ, thân sinh của Bình, ông Nguyễn Thanh Hà (tên thật là Nguyễn Thành A), đang ở Genève với cương vị tổng thư ký đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thân mẫu Bình, bà Huỳnh Thị Phi, người Vĩnh Long, sau đó mới ra Bắc, và sau năm 1954, làm nhân viên hành chánh của bộ Ngoại giao.
Hai đứa tôi sinh cùng năm. Chỉ hơn kém nhau 8 tháng.
Hai đứa tôi quen rồi thân nhau đúng là do “duyên nghiệp”, như cách Bình thường nói.
Nhà báo Huy Đức là người giới thiệu hai đứa tôi với nhau.
Nguyễn Thanh Bình tại Buôn Mê Thuột năm 1973. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
Năm 2015, tác giả “Bên Thắng Cuộc” đến thăm tôi. Thấy trên bàn tôi có cái tẩu hút thuốc màu trắng, Huy Đức nói, anh cho em đem về biếu một người bạn ở Việt Nam.
Khoảng một tháng sau đó, trên trang Facebook của Họa Sĩ Nguyễn Thanh Bình ở Sài Gòn có đăng hình cái tẩu với giòng chữ: Cám ơn Thái Đinh.
Vỏn vẹn 4 chữ, thế thôi. Sau đó, thản hoặc chúng tôi có liên lạc với nhau thì cũng chỉ là những câu ngắn gọn, nhưng tôi đọc nhiều bài viết của Bình và nghe bằng hữu ở quê nhà nói về chàng họa sĩ nổi danh này, tôi hình dung được Bình, một người đôn hậu, cởi mở, có lòng nhân.
Một buổi tối đầu Tháng Tám 2019, lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau khi tôi đón Bình từ Việt Nam sang Mỹ chơi.
Ba tuần ở với nhau, chúng tôi nói đủ thứ chuyện, chuyện đời, chuyện đất nước, chuyện người, chuyện mình… và nói về sinh hoạt văn học miền Nam. Bình nhận xét: “1954, người ta lấy một dòng sông chia đôi đất nước, một nửa phía Bắc, đứt lìa khỏi dòng chảy của Nam Phong, Tự Lực Văn Đoàn, nửa phía Nam vẫn tiếp nối và song hành cùng văn học thế giới. Những ai quan tâm đến văn học Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng (giai đoạn 1954 - 1975) không thể không biết những tên tuổi như Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Trần Hữu Tá, Võ Hồng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên ... duy trì một nền văn chương chuyên nghiệp. Đó là một nền văn học đúng nghĩa, đúng chức năng đối với xã hội, chỉ nhằm vào đối tượng duy nhất là con người.
Diện mạo văn học miền Nam (1954 - 1975) có nhiều gương mặt nổi bật, tuy nhiên, cũng giống như hội hội họa hay âm nhạc ở miền nam trước 75, nó không tạo ra được sức mạnh có tầm ảnh hưởng sâu đậm như Tự Lực Văn Đoàn và văn nghệ tiền chiến. Những cây bút xuất sắc nhất, tự mình tỏa sáng, tài năng của mỗi người được bảo toàn, hợp thành mảng văn học Việt Nam phong phú, đầy màu sắc, nhưng chưa đủ để soi rọi những ngóc ngách sâu xa của dân tộc đau khổ, oằn mình vì thời cuộc, bởi cuộc nội chiến tương tàn, thảm khốc ấy, có vai trò rất quan trọng trong tiến trình lịch sử của đất nước. Tự Lực Văn Đoàn là sự xuất hiện một văn đàn mang hồn cốt của dân tộc, trong bối cảnh nô lệ, điều ấy, nói ngắn gọn là ‘hồn dân tộc’ không bao giờ mất, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mà điều kiện của nó là sự tự do ngôn luận. Miền Nam trước 1975, quyền tự do ngôn luận được thể chế dân chủ bảo đảm, các nhà văn đã làm hết trách nhiệm của mình, đã đặt những dấu ấn không phai mờ, nhưng uy lực đã không còn rực rỡ như các bậc tiền bối.
Tuy nhiên, lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, sẽ tạc tên những người như Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu và cả Bùi Giáng ... lên tượng đài của mình, như là một phần tất yếu của hồn dân tộc những năm tháng khói lửa, đau thương ...
Và Bình đọc bốn câu thơ của Bùi Giáng để kết cho buổi nói chuyện kéo dài quá nửa đêm giữa hai đứa:
"Em từ vô tận dư vang
Kết chùm cỏ mọc đá vàng thiên thâu
Em đi từ tình mộng đầu
Trùng lai chất vấn biết đâu điệu chào ... "
(Bùi Giáng)
***
TRẦN ĐĨNH là tác giả cuốn “Đèn Cù, số phận Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, tự truyện của người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh” xuất bản tại Mỹ năm 2014.
Tết Trung Thu 2014, nhà văn Nhật Tuấn, tác giả cuốn Đi Về Nơi Hoang Dã lúc bấy giờ sống ở Bình Dương viết cho tôi một email ngắn: “Trung Thu năm nay tại Việt Nam trẻ con rước đèn lồng, còn người lớn bận rước Đèn Cù của Trần Đĩnh”.
Nhà văn Trần Đĩnh tại Mỹ năm 2015. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
Cuốn sách gây tiếng vang lớn cả trong lẫn ngoài nước vì tác giả tham gia Việt Minh vào lúc mới 16 tuổi và thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Và cũng vì ông còn là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập.
Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng, ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.
Trong vụ án mà chế độ quy chụp là “Xét lại chống đảng”, ông cũng là một nạn nhân, tuy lao tù nhẹ hơn những người khác như Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa, Vũ Thư Hiên…nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa hai chủ trương trong nội bộ đảng là theo Tầu hay theo Liên Xô cùng với Nghị quyết 9 dẫn tới cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng võ lực và đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam lún sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Cộng.
Là người chấp bút tiểu sử Hồ Chí Minh, Trần Đĩnh có nhiều cơ hội gần gũi và tiếp xúc với nhân vật này, đủ để cho ông nêu một nhận định ngắn gọn nhưng rõ nét về ông Hồ: “Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước Việt, dân Việt vơi đi.”
Suốt thời gian Đèn Cù còn trong dạng bản thảo, tác giả thường xuyên trao đổi với tôi về những đoạn cần thêm vào, hoặc cần cắt ngắn, nhờ vậy, tôi thấy được điểm đáng quý nhất của ông là tuyệt đối không bảo thủ ý kiến của mình mà rất tôn trọng ý người khác. Trong một email viết cho tôi, ông nói, bản thân ông đã sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói,” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, mà “ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Vì vậy, ông chủ trương, tác giả có công đẻ ra tác phẩm, nhưng chăm bón cho nó thành hoàn hảo để ra mắt độc giả là có bàn tay nhà xuất bản, nên nhà xuất bản có quyền tỉa bớt “những cành lá làm mất đẹp cái cây.”
Đầu năm 2015, tác giả Đèn Cù từ Việt Nam sang thăm Mỹ. Gần một tháng ông ngao du thăm bà con, bạn bè và văn hữu chỉ mới nghe tiếng nhau mà chưa bao giờ gặp mặt. Những ngày được hầu chuyện với ông, ông cho tôi nghe những nhận xét hết sức sâu sắc về người và việc.
Đối với sinh hoạt văn học miền Nam thời trước 1975, ông nói "Tôi là người được hoàn cảnh ưu ái có lẽ đặc biệt. Từ bé tôi đã sống trong môi trường sách hàng nghìn quyển của gia đình-cũng như có thể mỗi tuần xem điện ảnh đều đặn vài ba buổi không mất tiền. Được đọc, được xem với tôi gần như đã thành sự thường tình. Ở căn cứ địa Tân Trào, dưới trướng tổng bí thư Trường Chinh, tôi xem các báo Pháp, Mỹ cùng hàng giá tiểu thuyết Pháp, Mỹ trong tay Đức Sáu Ngón, bạn tôi, cai quản thư viện của Trung ương. Nói thế để nhấn rằng với việc đọc, tôi như đã quen không chấp nhận rào cản cho cái đọc. Do đó ở Bắc Kinh học xong về nước, trong hai năm 1961, 62, tôi đã nhót lấy hầu hết các báo chí, tập san văn nghệ, văn học của Sài Gòn để đọc. Và xin nói thật, thấy ngụp ngay vào cái dòng chảy văn học dân tộc đậm đà chất hiện sinh chủ nghĩa Sartre và Camus nầy hơn cái dòng chảy cuồn cuộn nhưng giả tạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi đã thích những Võ Phiến, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thế Uyên, Nguyễn Thị Hoàng, Bình Nguyên Lộc, Uyên Thao, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Túy Hồng, Phan Nhật Nam, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thụy Ý, … Các anh chị em trong Nam lôi cuốn tôi vì họ thổ lộ chân thực đầy đủ lòng dạ. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài là ở đây. Còn anh chị em nhà văn ngoài bắc thì khác, cứ phải dựa vào cái lý tưởng chưa có, để thêu dệt ra những điều viển vông để ca ngợi...Và cuối cùng rồi sao? Xôi hỏng, bỏng không.
Đêm đưa ông Trần Đĩnh ra phi trường bay về Sài Gòn, có một thoáng tôi buột miệng hát mấy câu trong một ca khúc mà chính tôi không nhớ tên: “Dù rằng sau mưa bão gió hiền hòa lại về vẫn thấy lòng hoang vu, cuộc đời là hư vô bôn ba chi xứ người khi mình còn đôi tay.”
Nghe tôi ư ử trong cổ họng, ông nói, này, nghe cháu hát Xin Thời Gian Qua Mau của Lam Phương, bác có cảm tưởng cháu đang lao theo một nỗi buồn đau nào đó đang chạy phía trước.
***
KIM CHI là khuôn mặt lớn của sinh hoạt điện ảnh miền Bắc trong cuộc chiến. Tên thật và đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Chi. Nghệ danh của cô văn công Kim Chi trong 10 năm ở chiến trường miền Nam từ 1964 đến 1974 là Hồng Anh. Sau đó bà trở lại miền Bắc. Những năm tháng bom đạn đó, Kim Chi vừa là MC giới thiệu chương trình, vừa là diễn viên kịch, khi thiếu người, bà cũng múa hát. Bà được bộ đội đặt cho cái biệt danh là “người đẹp rừng xanh.”
Kim Chi nổi tiếng với những bộ phim như Nước Về Bắc Hưng Hải, Mùa Gió Chướng, Cánh Đồng Hoang. Tháng Giêng năm 2013, bà
Kim Chi đã từ chối làm hồ sơ khen thưởng nghệ sỹ của Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vì cho rằng ông Dũng đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân.Nguyên văn lời tuyên bố của bà là: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.”
Ngày 4 Tháng11 năm 2018, nghệ sĩ Kim Chi chính thức tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lá thư gửi đảng, bà viết, “Lẽ ra tôi đã làm việc này cách đây gần 3 năm trước, khi ông Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử Tổng Bí thư Đảng CSVN. Bởi tôi biết ông Trọng một mực theo đuổi CNXH - con đường tăm tối không có tương lai cho đất nước, đi ngược xu thế tiến bộ của nhân loại.
Nhưng ngày đó, lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh - cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Giáo sư Chu Hảo, và chồng tôi (ô. Vũ Linh), cùng nhiều bằng hữu tâm huyết khuyên tôi kiên nhẫn ở lại để giúp những người tốt trong Đảng CSVN nhận biết lẽ phải.
Tôi đã kiên nhẫn tỏ bày chính kiến ôn hoà trong mọi việc:
- Xuống đường biểu tình vì nhân quyền, chủ quyền đất nước, môi trường sống...
- Viết Facebook lên án những sai trái của an ninh, giới chức nhà nước.
- An ủi, sẻ chia cùng tù nhân lương tâm, bà con dân oan...
Tham gia các hoạt động xã hội dân sự, với thiện ý xây dựng, tôi thành tâm mong góp tiếng nói phản biện, nhằm thức tỉnh lương tri những người đang chèo lái vận mệnh đất nước. Tôi chưa bao giờ có ý tưởng lật đổ, cổ xúy bạo lực, mà luôn thật lòng mong mỏi những người giữ trọng trách trong guồng máy nhà nước thay đổi tốt đẹp, biết yêu nước, thương dân.
Nhưng đáp lại thiện chí của chúng tôi là sự đàn áp ngày càng khốc liệt người bất đồng chính kiến; là ý đồ muốn biến nhân dân thành bầy cừu; thù ghét, khủng bố những người dấn thân tranh đấu vì những quyền cơ bản, chính đáng của con người, những giá trị phổ quát của nhân loại; hãm hại những trí thức ưu tú muốn khai trí nhân dân.
Trải qua tuổi trẻ ở chiến trường, tôi khát khao giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng than ôi! Khi nhận ra mình đã góp tuổi xanh vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do mâu thuẫn ý thức hệ quốc tế, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều đêm trắng tôi thao thức, khi những người ưu tú lần lượt vào tù. Hàng triệu dân oan không nhà làm nhói tim tôi. Im lặng là đồng loã cái ác, là có tội…”
Một đoạn khác trong lá thư, bà viết: “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, mà Đảng CSVN lấy làm nền tảng tư tưởng, chỉ là một học thuyết phản khoa học, phi thực tế, cổ xúy bạo lực ‘đấu tranh giai cấp’, hiếu chiến, tạo bất công, gieo rắc đói nghèo lạc hậu, độc đoán thủ tiêu mọi quyền tự do chính đáng của nhân dân…
…Phần lớn lãnh đạo Đảng CSVN tự hoang tưởng, tha hóa biến chất ngày một tồi tệ, làm đất nước ngày càng tụt hậu, nhân dân lầm than. Đã đến lúc tôi phải rời khỏi cái đội ngũ mà thế lực hắc ám ngự trị trong Đảng CSVN đang lạm dụng làm bình phong che chắn cho động cơ vị kỷ, tệ hại của họ.
Tôi thành tâm mong mỏi ngày càng có nhiều đảng viên có lương tri, còn tâm huyết với dân, với nước, nhất là thế hệ trẻ, tiếp tục rời bỏ Đảng CSVN, rời bỏ Đoàn TN CSVN.
Vận nước, tương lai dân tộc tùy thuộc mỗi người Việt Nam chúng ta.”
Kim Chi thăm vấn an Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Bà Kim Chi sang Mỹ nhiều lần, thăm con, thăm các học trò cũ và gặp gỡ những người có thời từng bà từng khác chiến tuyến. Gặp bà, nghe những câu chuyện của bà, quan sát bà, tôi thấy bà là một nhân cách đôn hậu, chân thật, tiêu biểu cho những mẫu người trong thơ Phùng Quán “yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu, dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét.”
Một lần, bà tâm sự: “Trước 75, tôi ở rừng miền Đông Nam bộ. Thỉnh thoảng mới đọc lén được một tờ báo của miền Nam, do một ai đó vừa đi thăm gia đình móc về. Ấn tượng của tôi là những tờ báo ấy được trình bày đẹp mắt và phong phú hơn rất nhiều báo chí ở miền Bắc lúc bấy giờ. Nhưng tôi không có nhiều cơ hội để tiếp xúc với báo chí miền Nam trong giai đoạn đó.
Cho mãi tới năm 1978, sau khi học xong khóa đạo diễn Sân Khấu ở Bungaria trở về, tôi có dịp sống và làm việc ở Sài Gòn. Khi ấy tôi dạy ở trường nghệ thuật sân khấu 2 ở 125 Cống Quỳnh. Đây là cơ hội vàng để tôi tìm hiểu về đời sống văn hóa của người miền Nam trước 75. Thỉnh thoảng tôi lang thang tới những cửa hiệu bán sách cũ. Tôi ngớ ra vì thấy mình có quá nhiều điều không biết. Thì ra báo chí miền Nam khi đó khá tự do. Nó được viết ra theo suy nghĩ của những người cầm bút. Nó được tỏ bày theo chính kiến của nhà báo. Báo chí của nhà nước cộng sản thì phải viết theo định hướng của đường lối cách mạng và sự chỉ dẫn của lãnh đạo. Các nhà báo ăn lương của nhà nước và thường viết theo lệnh của các tổng biên tập. Mà các tổng biên tập thì lại nhận lệnh từ cấp trên (Ban văn hoá tư tưởng) về những chủ đề trên trang báo ấy phải phản ánh. Họ chỉ được phép viết ca ngợi chế độ. Thỉnh thoảng đưa ra vài câu chuyện tiêu cực, nhưng phải tránh những nhân vật có tên tuổi. Luận điệu của họ là ‘phải bảo vệ uy tín cán bộ để cho họ lãnh đạo.’ Miền Bắc ngày ấy có nhiều tòa soạn: Thanh Niên, Phụ Nữ, Thiếu Nhi, Tiền Phong... nhưng toà soạn báo Nhân Dân là quyền uy nhất. Nhiệm vụ của tờ báo này là đưa ra chủ trương chính sách của đảng. Đội ngũ phóng viên của tờ báo này 100% là ăn lương nhà nước. Có nhiều nội dung quan trọng như phổ biến chính sách thì bài viết là của phóng viên, nhưng nó lại được ký tên bởi một ông to nào đó. Báo chí miền Bắc khi đó nhiều khi phải làm nhiệm vụ lái dư luận xã hội qua những chuyện ‘cướp, hiếp’ để tránh một vụ bê bối của một quan chức nào đó. Với luận điệu của họ rằng ‘để xử lý nội bộ’...
Không phải báo chí miền Nam trước 75 là tuyệt đối tự do. Nhưng nếu so sánh với báo chí miền Bắc ngày ấy và ngay cả bây giờ thì báo chí miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn báo chí cộng sản Việt Nam.
Đó là sự khác biệt cơ bản của hai nền báo chí: VNCH và CHXHCNVN.
Năm tháng qua đi, tôi càng thấm thía rằng những người cầm bút mà không được viết theo mệnh lệnh của trái tim mình, lại phải viết theo sự sai khiến của ai đó thì chẳng có gì đáng buồn hơn. Tự do tư tưởng là niềm khát vọng cho những người sống có lý tưởng. Người cầm bút phải có TỰ DO TƯ TƯỞNG. Không để cho người ta biến mình thành những con Robo.
Hỏi bà, bà có lo sợ cho an ninh bản thân khi lớn tiếng kết án chế độ bằng những lời lẽ như thế, nữ nghệ sĩ có khuôn mặt khả ái này nói, bà “từng đi chiến trường 10 năm, không sợ chết vì bom đạn thì bây giờ coi mọi việc nhẹ như lông hồng.”
***
NGUYỄN THỊ HẬU là tiến sĩ khảo cổ học, được nhiều người biết tới với tên "Hậu khảo cổ”. Bà có nhiều công trình nghiên cứu về các nền Văn hóa Óc Eo, Đồng Nai, Sa Huỳnh, khảo cổ học đô thị... Bà cũng xuất bản nhiều cuốn sách ở các thể loại như ký, truyện ngắn, tản văn…Một số tác phẩm tiêu biểu của bà: Thế Giới Mạng Và Tôi, Ngắn & Rất Ngắn, Sài Gòn Bao Giờ Cũng Thế…
Từ trái : Nguyễn Thanh Bình, Trần Đĩnh, Nguyễn Thị Hậu và Hồng Ánh.
Nguyễn Thị Hậu sang Mỹ lần gần đây nhất trước khi thế giới bị cuốn vào trận đại dịch Covid-19 là năm 2019.
Gia đình tập kết từ Nam ra Bắc năm 1954, bốn năm sau, Hậu “khảo cổ” chào đời tại Hà Nội. Lớn lên ngoài Bắc và chỉ nhìn thấy miền Nam sau 1975, nên Nguyễn Thị Hậu có giọng nói “thuần Bắc.”
Nhiều lần gặp, ăn uống, trò chuyện, thậm chí còn đi với nhau cả một đoạn đường xa từ Nam lên Bắc Cali, có cả nữ nghệ sĩ trung hồ cầm Hồng Ánh, họa sĩ Nguyễn Thanh Bình và nhà báo Mặc Lâm, nhiều câu chuyện Hậu “khảo cổ” kể đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng về sinh hoạt xã hội miền Bắc. Nhất là những cảm nghĩ của Hậu về văn học miền Nam trước 1975.
“Sau năm 1975, nhiều người lần đầu vào Sài Gòn choáng váng khi nhìn thấy cuộc sống của thành phố này: nhà cửa, xe cộ, quần áo và hàng ngàn loại vật dụng sinh hoạt... mà hầu như gia đình nào ở Sài Gòn cũng có, trong khi đó ở miền Bắc chỉ có thể nhìn thấy vài thứ trên phim ảnh “Liên xô”, thậm chí có thứ chưa từng biết đến như TV, tủ lạnh, đồ dùng trong toilet... Có thể đọc những cảm nhận này qua hồi ký của một số người nổi tiếng mới xuất bản gần đây.
Giữa năm 1975 gia đình tôi – một gia đình miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 – đoàn tụ ở Sài Gòn. Những tháng đầu cả nhà ở tạm trong một căn phòng tại cơ quan của ba tôi (là một biệt thự trên đường Trần Quý Cáp). Trong căn phòng chừng hơn 30m vuông có một tủ sách lớn dựng suốt một bức tường. So với tủ sách đơn sơ của nhà tôi ở Hà Nội được đóng bằng những mảnh gỗ tạp, cũng chứa đầy sách, thì cái tủ sách “vĩ đại” này đã thỏa mãn ước mơ lớn nhất của tôi khi ấy! Tôi bỡ ngỡ và sung sướng làm sao khi trên đó đầy ắp các loại sách truyện, tạp chí... còn phía dưới giá sách là một dàn máy AKAI với một cuốn băng đang nghe dở “Sơn ca 7”. Đây là cơ duyên đầu tiên của tôi với văn học miền Nam và với nhạc Trịnh Công Sơn.
Từ cái tủ sách đó giờ rảnh rỗi tôi chỉ ôm sách đọc ngấu nghiến, đầu tiên là sách văn học. Lâu rồi tôi không nhớ hết tác giả và tác phẩm, nhưng tôi còn nhớ các tác giả Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Hồ Trường An, Bình Nguyên Lộc, Chu Tử, Hoàng Hải Thủy, Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ... Vài tác giả chuyên sáng tác chuyện miền Tây như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, An Khê, Lê Xuyên... Những tác giả của Tự Lực Văn Đoàn mà ngoài Bắc chỉ giới thiệu rất ít... Ngoài ra còn nhiều truyện dịch mà ba tôi rất thích; chị tôi mê mải với Quỳnh Dao còn anh tôi thì nghiền Kim Dung...
Từ năm 1976 vào học đại học Văn Khoa tôi còn được bạn bè giới thiệu và cho mượn sách của các tác giả Mai Thảo, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ... lúc này đã bị cấm lưu hành. Rồi khi nhiều thư viện “thanh lý” sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 ba tôi đã xin được mấy thùng sách về lịch sử của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, các bộ sử thời Nguyễn... Thế giới văn học của tôi trở nên rộng mở và cũng mang đến cho tôi bao điều mới mẻ, cả những nỗi hoài nghi mà tôi phải mất nhiều năm mới giải đáp được.
Lúc đầu tôi không thích lắm vì phần lớn các đầu sách là loại “tiểu thuyết gia đình” với tựa sách gợi cảm và hình bìa nhiều màu sắc, cốt truyện thường đơn giản, xoay quanh những cuộc tình éo le không lối thoát do thân phận, do cuộc chiến, nhiều tình tiết “lâm ly bi đát” giống tuồng tích cải lương khi ấy. Đọc xong không để lại ấn tượng gì ngoài một kết thúc buồn, hiếm khi nào “có hậu”. Phải chăng sự thật về chiến tranh luôn hiện diện trên báo chí truyền thông làm cho xã hội bất an, cuộc chiến ngấp nghé bên ngoài đô thành đã làm cho con người mất niềm tin vào tương lai?
Nhưng rồi, dần dần một thế giới mới đến với tôi, rất khác với các tác phẩm văn học tôi từng đọc ở miền Bắc. Từ cao sang đến nghèo hèn, từ quan chức tướng lĩnh đến công chức, buôn gánh bán bưng, thế giới của các tay anh chị, tướng cướp hay gái điếm... tất cả đều hiện diện trong văn chương, không loại trừ “kiêng cữ” một ai. Trong nhiều tác phẩm không có ai thật tốt hoặc thật xấu, nhưng ở vào thời điểm khó khăn thì họ đều bộc lộ phần nhân văn ẩn sâu bên trong... Vì vậy, dù kết thúc buồn nhưng vẫn mang lại cho người đọc cảm xúc đẹp về tình người.
Các tác phẩm về cuộc chiến thực sự khốc liệt, trần trụi, ác liệt... hầu như không có bóng dáng của những lời tuyên truyền “lý tưởng cao đẹp” như ngoài Bắc mà chỉ thấy trong mỗi người lính đầy ắp nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương, tình đồng đội... Cũng không thiếu vắng cái chết đau đớn của những người lính, nỗi đau giằng xé của vợ góa con côi, nhưng ước mơ một ngày giản dị bên gia đình, bên “người yêu bé nhỏ” khi đã “tàn cơn binh đao”... là hy vọng sống sót cho những người lính trận. Bởi vì, khi cuộc chiến kết thúc thì người lính lại trở về làm dân, nếu may mắn không “xanh cỏ” thì cũng có mấy ai được “đỏ ngực”.
Để lại nhiều ấn tượng với tôi là các tác phẩm của Duyên Anh như : Dzũng Đakao, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Điệu ru nước mắt; của Nhã Ca: Truyện cho những cặp tình nhân, Thành phố buồn, Đêm nghe tiếng đại bác, Giải khăn sô cho Huế. Truyện của Nguyễn Thị Hoàng rất lạ với tôi như: Vòng tay học trò, Tuổi Sài Gòn. Còn Nguyễn Thụy Long hay nhất là Loan mắt nhung. Đặc biệt là Mùa hè đỏ lửa của tác giả Phan Nhật Nam hay bộ ba tập “Đường đi không đến” của nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ... Tôi đặc biệt thích Bình Nguyên Lộc với các công trình biên khảo công phu của ông và những trang tản văn, tùy bút đẹp đến nao lòng...
Tuy nhiên, cái hấp dẫn tôi nhất chính là mỗi tác giả có phong cách riêng, dễ nhận biết qua chủ đề, cốt truyện và ngôn ngữ. Nhà văn Nam bộ hóm hỉnh, giản dị câu chữ, nhà văn miền Bắc sắc sảo, bóng bẩy, nhà văn và cũng là nhà báo thì sinh động, trực diện... Ngôn ngữ vùng miền, phương ngữ được sử dụng phổ biến. Cả một xã hội phân hóa sâu sắc, phong phú, đa dạng và cũng khắc nghiệt, tàn nhẫn như cuộc sống hiện ra, thôi thúc tôi tò mò tìm đọc và luôn ngạc nhiên mỗi khi bước vào “khu rừng” văn học miền Nam khi ấy.
Đặc biệt sách văn học cho tuổi thanh thiếu niên rất nhiều, có lẽ nổi bật nhất là Tủ sách Tuổi Hoa. Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Tôi còn nhớ sách Hoa Đỏ là loại trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình yêu giữa nam nữ một cách trong sáng. Dấu hiệu thân thuộc của tủ sách là bông hoa tám cánh giản dị và xinh xắn.
Cũng phải nói đến những tiệm cho thuê sách và cửa hàng sách cũ luôn là nơi hấp dẫn với tôi chứ không phải là cửa hàng thời trang hay mỹ phẩm. Tôi còn nhớ hoài có bạn học người Sài Gòn khá kỳ thị tôi bởi cái giọng Hà Nội 75 và trang phục giản dị có phần “hổng giống ai”. Một lần không biết có việc gì bạn đến nhà tôi, nhìn thấy tủ sách bạn rất ngạc nhiên vì bên cạnh những cuốn sách tôi mang vào từ Hà Nội là rất nhiều sách xuất bản tại Sài Gòn. “Nhà Việt Cộng mà cũng có sách như nhà ‘Ngụy’ à?!” nhưng từ đó thái độ của bạn với tôi khác hẳn. Đặc biệt bạn bắt đầu đọc và rồi cũng thích nhiều tác phẩm văn học của miền Bắc.
Văn học miền Nam trước 1975 đa dạng và phong phú về tác giả, thể loại, khuynh hướng, trường phái… Đó là nhờ sự khai phóng của môi trường xã hội nói chung và môi trường sáng tác nói riêng, sự cởi mở của giới cầm bút chấp nhận những thử nghiệm, sáng tạo, tinh thần tự do dân chủ của giáo dục – nhất là giáo dục đại học. Những tác phẩm văn học tôi đọc tuy còn ít ỏi nhưng đủ để nhận biết giá trị nhân văn của một nền văn học, qua đó hiểu biết về xã hội và con người miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Điều đó góp phần giúp tôi thoát khỏi định kiến mặc cảm về “bên này – bên kia, thắng – thua, ta – địch” mà nhiều người cùng thời với tôi còn đang mang nặng trong lòng.”
***
DƯƠNG THU HƯƠNG tự nhận mình là “người rừng”, “mụ nhà quê răng đen, mắt toét”.
Báo chí Pháp thì gọi Dương Thư Hương là “Con Sói Đơn Độc”.
Còn lãnh đạo cộng sản Việt Nam thì chửi bà là “con đĩ chống đảng”.
Dương Thu Hương và Đinh Quang Anh Thái tại một quán ăn ở Paris năm 2005. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)
Gọi bằng gì thì gọi, Dương Thu Hương vẫn là chính mình: bản chất chân quê không hội nhập vào thế giới mạng Internet, bỗ bã, đốp chát, đơn độc, và trên hết, ngay thẳng, hết mực với mục tiêu nhắm tới là tranh đấu cho một nước Việt Nam dân chủ, tự do, thoát khỏi cái chế độ hiện nay mà bà gọi là “chỉ sống bằng xác chết, không có bất cứ giá trị gì cả.”
Sinh năm 1948, lớn lên tại miền Bắc vào đúng giai đoạn Cộng sản Hà Nội tung toàn lực lượng nhất quyết bằng mọi giá phải đạt được tham vọng “giải phóng miền Nam thoát khỏi sự kềm kẹp của Mỹ-Ngụy.” (sic)
Như lời bà kể, cùng với hơn 100 bạn ngang lứa tuổi, bà đã cắt máu xin vào Nam “đánh Mỹ cứu nước”.
Những trải nghiệm trong chiến tranh, cùng những chua chát của Tháng Tư 1975 đã là chất liệu cho các tác phẩm sau này của bà, như “Những Thiên Đường Mù”, “Bên Kia Bờ Ảo Vọng”, “Khải Hoàn Môn”, “Đỉnh Cao Chói Lọi”, “No Mans Land” (ấn bản Anh ngữ) được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”…
Dương Thu Hương là một trong những người cầm bút đã can đảm “bước qua lời nguyền”, giành lại quyền suy nghĩ bằng cái đầu của chính mình với những bài phát biểu, bài viết; và nhất là với tác phẩm “Những Thiên Đường Mù.”
Tôi chỉ biết Dương Thu Hương qua tác phẩm, mãi tới khoảng giữa tháng Tư 1997, lần đầu tiên tôi mới có dịp – qua điện thoại - nói chuyện với “Con Sói Đơn Độc.”
Sau rất nhiều lần trò chuyện thăm hỏi, Dương Thu Hương mới trải lòng nói về dấu mốc quan trọng làm thay đổi hẳn cuộc đời bà là thời điểm đoàn quân của “bên thắng cuộc” vào Sài Gòn trưa ngày 30 Tháng Tư 1975.
Trả lời cuộc phỏng vấn bằng điện thoại, Dương Thu Hương kể: “Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngả rẽ trong đời tôi. Khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn, trong khi tất cả mọi người trong toán quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi ngồi bên lề đường khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người dân có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn.
Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.”
Nhiều năm sau cuộc phỏng vấn lần đầu tiên đó, tôi thường xuyên điện thoại về Hà Nội nói chuyện với bà Dương Thu Hương; và thậm chí còn sang tận Paris thăm bà vào trung tuần Tháng Hai năm 2005, khi bà nhận lời mời của nhà xuất bản Sabine Wespieser Editeur để ra mắt tác phẩm đã được in bằng Anh ngữ, cuốn “No man’s land”, được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”.
Trong suốt 8 năm được trò chuyện qua điện thoại và những lần gặp mặt trực tiếp, tác giả Thiên Đường Mù đã dành cho tôi nhiều cuộc phỏng vấn dài.
Tháng Tư 2020, nước Pháp và riêng thủ đô Paris đang bị dịch Covid-19 hoành hành khiến người dân ai cũng ru rú trong nhà để tránh dịch, tôi gọi điện thăm Dương Thu Hương, bà nói “Con sói đơn độc” vốn đã đơn độc nay càng đơn độc hơn và đang dành trọn thì giờ góp phần cho cuộc đấu tranh dân chủ của đồng bào tại quê nhà. Tôi nhắc lại câu bà nói với tôi Tháng Tư năm 2007:
“Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do, người dân có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ...nếu người ta muốn.
Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.”
Đinh Quang Anh Thái
_____
Chú thích :* “Bên Thắng Cuộc” là tựa cuốn sách của Nhà báo Huy Đức.