(Tưởng niệm Ngày Tang Yên Bái 17 tháng 6 năm 1930. Kính dâng nén tâm hương, tri ân bao anh hùng liệt nữ Việt Nam Quốc Dân Đảng đã vị quốc vong thân)
Hồng Linh đã về tới quê hương trong chuyến đi hoàn toàn bất ngờ. Một chương trình trao đổi kỹ thuật đặc biệt về tin học với các nước Châu Á, khi cô đang ở trong lãnh vực này. Chặng đầu tiên sẽ dừng ở miền Bắc, Việt Nam trong hai tuần lễ.
Hai tuần lễ ở Hà Nội, ngoài những buổi hội thảo, Linh lang thang tìm thăm những địa danh mà mẹ cô thường nhắc. Hà Nội là nơi mẹ cô chào đời, nhưng khi mẹ mới mười tuổi thì ông bà ngoại đã phải dắt mẹ, cùng các cậu, các dì của cô vào miền Nam để lánh nạn Cộng Sản.
Mới mười tuổi thôi, nhưng mẹ cô đã nhớ nhung, đã ôm ấp, đã cưu mang gìn giữ biết bao nhiêu là hình ảnh, là kỷ niệm thân thương về quê ngoại, với làng Đồng Du thuộc tỉnh Hà Nam và quê nội, với thôn Phương Viên, huyện Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Đông.
Là con gái đầu lòng, ngoài tình mẹ con, Linh còn được mẹ coi như bạn để mẹ kể những câu chuyện bi hùng về thời kháng chiến xa xưa, những anh hùng liệt nữ hữu danh cũng như vô danh trong chiều dài lịch sử khi dân tộc Việt Nam bị ngoại xâm đô hộ. Những con sông, những vách núi, tưởng như cảnh vật bình thường nhưng qua lời mẹ kể, Linh cảm nhận sâu xa có hồn thiêng sông núi trên từng bụi cỏ, lùm cây.
Trưởng thành ở xứ người, Linh thật hạnh phúc vì đã được là con của mẹ vì mẹ cô, vừa là mẹ, vừa là bạn để không chỉ dậy dỗ mà còn chia sẻ những rung động tâm linh về cội nguồn Đất Tổ.
Linh đã về được quê nội, quê ngoại, thâu vào ống kính những hình ảnh nghèo nàn, dân tình thờ ơ, không còn như lời mẹ thường kể về quê xưa.
Linh chấp nhận những thay đổi này như điều tất nhiên của hoàn cảnh xã hội, nhưng cảm xúc khi chậm bước trên đường làng thì tràn đầy thân thương, tưởng như cô đã từng được hạt lúa nơi đây nuôi lớn.
Hôm nay, cô sẽ thực hiện điều thứ ba, như đã hứa với mẹ, là sẽ tìm cách tới địa danh Yên Bái, nơi gần một thế kỷ trước, đảng trưởng Nguyễn Thái Học của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã cùng mười hai đồng chí hiên ngang bước lên đoạn đầu đài, vị quốc vong thân dưới lưỡi đao của thực dân Pháp.
Trang sử bi thảm của một dân tộc bị ngoại bang đô hộ đã ghi đậm nét hào hùng, lẫm liệt khi cuộc nổi dậy giành lại tự do, độc lập bất thành. Một đảng cách mạng mà thành phần chủ yếu là những sinh viên, học sinh với sự tiếp sức của những nông dân hiền lành, chất phác, nhưng lòng yêu nước đã khiến gươm đao, súng đạn của ngoại xâm rúng động. Sự lo sợ khiến chúng phải dùng hạ sách là bủa vây, lùng bắt những người nổi dậy, đưa lên máy chém!
Khi nghe Linh muốn đến thăm Yên Bái thì một sinh viên địa phương có tham dự hội thảo, đã tình nguyện hướng dẫn. Vũ chia sẻ rằng, anh tuy lớn lên ở Hà Nội nhưng nơi chào đời là Việt Trì, đường dẫn tới Yên Bái. Muốn tới Việt Trì phải qua phà, nơi con sông nổi tiếng vì có loại cá rất ngon và hiếm, xưa chỉ để dâng vua. Đó là cá anh-vũ. Rồi anh bẽn lẽn nói thêm rằng, đó cũng chính là tên anh mà cha mẹ đã chọn, khi làm giấy khai sinh.
Hai người bạn trẻ ra bến xe, đi trên quốc lộ 3, về hướng tây bắc.
Dọc đường, thỉnh thoảng Linh bấm máy thâu hình và Vũ dẫn giải vào phần ghi âm: “Đây là ngã ba Phủ Lỗ, thuộc tỉnh Phúc Yên. Chúng tôi vừa rẽ vào quốc lộ 2, theo hướng Việt Trì. Chúng tôi sẽ qua phà để tới Việt Trì, rồi theo hướng Phú Thọ, chúng tôi sẽ tới một con sông lừng danh thời kháng chiến …”
Linh ngắt lời bạn, reo lên:
- Có phải sông Lô không?
Vũ ngạc nhiên:
- Sao Linh biết?
- À, Linh đoán thôi, vì Linh nghe mẹ nói là thời bé, mẹ thường được ông ngoại ru ngủ bằng bài hát Trường Ca Sông Lô mà nhạc sỹ Văn Cao đã sáng tác rất xuất thần, làm nức lòng bao người trẻ tuổi, bỏ bút nghiên, lên đường kháng chiến chống ngoại xâm.
Vũ nhìn Linh, như chờ đợi.
Và Linh khẽ cất tiếng hát: “Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau, núi rừng thâm u. Thu ru, bến sóng vàng từng nhà mờ biếc, chìm một mầu khói thu. Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang. Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn mầu nước sông Lô xưa …”
Thật không ngờ cô đang được là người lữ khách, qua bến nắng hồng, nhìn mầu nước xưa … Còn biết bao người mong ước được trở về quê cha đất tổ mà không thể!
Xe dừng ở trạm Phú Thọ, đón thêm khách. Linh bỗng cảm thấy hồi hộp quá! Cô nghĩ, chắc sắp tới Yên Bái rồi chăng?
Chuyến đi này, cô mang theo cả tấm lòng gửi gấm của mẹ. Qua những cuốn sách mẹ đã viết về những cuộc nổi dậy thời thập niên ba mươi của bao con dân Việt Nam yêu nước đứng lên kháng chiến chống ngoại xâm thì cô biết một điều, đối với mẹ, Yên Bái là Linh Địa, là nơi tiêu biểu cho lòng yêu nước, sự hy sinh, chí khí can trường dũng cảm.
Mẹ chưa tới được Yên Bái nhưng từ những sự kiện lịch sử, thì từng câu chuyện, từng bài thơ, từng trang sách, mẹ đã vô tình truyền sang cô một tình yêu quê hương sâu đậm mà nhờ chuyến đi này cô mới cảm nhận được rõ hơn.
Máy thâu trên tay Linh vẫn chầm chậm thu vào cảnh trí bên ngoài, và lời dẫn giải của Vũ vẫn đều đều ghi âm: “Chúng tôi đang trên đường từ Đoan Hùng vào thị xã Yên Bái. Xa xa phía trước là Xóm Đầm Sen, nơi có một nghĩa trang là nghĩa trang Yên Bái. Pháp trường Yên Bái thời xưa ở gần Đầm Sen, nơi có một hồ rộng …”
Linh như không nghe Vũ nói gì nữa. Cô hấp tấp bảo:
-Xuống đây đi! Chúng ta xuống đây đi!
-Chưa tới thị xã Yên Bái mà.
-Linh muốn đi bộ tới Xóm Đầm Sen.
Tuy mang tên Xóm Đầm Sen nhưng nơi đây chẳng thấy bông sen nào, chỉ những thửa đất khô cằn, nhấp nhô từng lùm cỏ dại. Linh lại đột ngột hỏi:
-Có sân vận động nào quanh đây không?
-Sân vận động Bãi Lăng ngay kia kìa.
-Đi mau! Chúng ta tới đó!
Vũ chạy theo Linh, ngạc nhiên vì sự hối hả và xúc động của bạn khi hỏi về những nơi chốn mà Vũ nghĩ là có chi để tham quan đâu!
Quả thật, sân vận động Bãi Lăng chỉ là một khoảng đất trống, mỗi đầu dựng một khung thành và xung quanh có những hàng ghế gỗ thô sơ. Nhưng sau này, chi tiết lịch sử được ghi thêm thì đây chính là pháp trường Yên Bái năm xưa, quanh đó có những dẫy nhà thấp, dùng làm trại binh Khố Xanh.
Linh nghe lòng mình thầm nấc lên “Mẹ ơi, đây rồi! Mẹ ơi, con đang đứng trên phần đất quê hương, nơi gần một thế kỷ trước là pháp trường Yên Bái, nơi mà 5 giờ 37 phút, sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930, bọn ngoại xâm đã đưa mười ba vị anh hùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài. Những bước chân hiên ngang, những tiếng hô Việt Nam Muôn Năm bị đứt quãng khi đầu lìa khỏi cổ nhưng âm thanh sấm sét đó đã đi vào từng trái tim Việt Nam, máu loang trên đất mẹ đã tô đậm nét son trên trang sử một dân tộc bất khuất, kiên cường. Từng bước chân tiến tới máy chém đã nở từng đóa hoa bất diệt.
Người thứ nhất: Bùi Tử Toàn
Người thứ hai: Bùi Văn Chuẩn
Người thứ ba: Nguyễn An
Người thứ tư: Hà Văn Lạo
Người thứ năm: Đào Văn Nhít
Người thứ sáu: Ngô Văn Du
Người thứ bẩy: Nguyễn Đức Thịnh
Người thứ tám: Nguyễn Văn Tiềm
Người thứ chín: Đỗ Văn Sứ
Người thứ mười: Bùi Văn Cửu
Người thứ mười một: Nguyễn Như Liên
Người thứ mười hai: Phó Đức Chính
Và người thứ mười ba là Nguyễn Thái Học, đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Sau cuộc thảm sát, chính quyền ngoại xâm đã mang mười ba thi hài, chôn chung một huyệt dưới chân Đồi Cao, cách nhà ga xe lửa tỉnh Yên Bái khoảng một cây số…”
Hồng Linh đã quỳ xuống tự lúc nào, khi giòng lịch sử thầm lặng trải từng trang máu lệ.
17 tháng 6 năm 1930.
90 năm đã trôi qua.
Thế kỷ là dài hay ngắn?…
Dăm khách qua đường nghiêng đầu ngạc nhiên, nhìn hai người trẻ tuổi yên lặng quỳ bên nhau trên khoảng đất trống.
Linh không ghi hình.
Vũ không thâu âm.
Mà dường như hình ảnh, âm thanh từng trang sử Việt đang đầy ắp, đang rạt rào trong trái tim “Năm mươi con theo mẹ lên núi. Năm mươi con theo cha xuống biển” …
Huệ Trân
(Thành kính tưởng niệm)