Tôi sung sướng đằm mình trong nước mát. Trên đầu tôi, chung quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng.
Đang say sưa ngụp lặn bỗng tôi bị một cái gì va vào làm tôi vùng vẫy, sặc sụa.
– Cậu ngủ say quá thể! – tôi nghe tiếng người, tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu.
Cô Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại không được. Thế là tỉnh hẳn.
– Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi càu nhàu.
Tôi tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa lắc. Nó gần như mất hẳn trong trí nhớ.
Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia.
Tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc.
– Sớm gì mà sớm. – tiếng cô Lương nói – Trưa rồi.
Tôi vẫn còn chưa hết bực mình. Kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi.
Cô Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên miệng chén.
Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp, da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, cái duyên của cô ngày trước, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước.
Giọng cô không còn trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở quai hàm bên phải chui ra một sợi râu bạc.
– Cửa cũng không thèm đóng. – cô chép miệng, trách – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không?
– Ngày gì?
– Ngày Ông Táo lên chầu giời rồi đấy.
– Ờ…
Lại một năm trôi qua. Cô Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy.
Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc, thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè.
– Em mang ít đồ cúng sang cho cậu.
Trên nóc tủ tôi thấy có mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén.
– Cảm ơn cô.
Cô cười không tươi.
– Đàng nào em chả cúng. Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá?
– Ờ…
– Hôm nay em sang đây – cô nói, giọng ngập ngừng – là có việc phiền cậu…
Tôi đặt chén trà xuống, nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao giờ nhờ vả tôi.
– Việc gì vậy?
Cô ngần ngừ.
– Em muốn phiền cậu đi Berlin với em một chuyến.
Tôi ngạc nhiên. Từ khi dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu.
– Đi Berlin? Làm gì chứ?
Cô nhoẻn cười, ngượng ngập:
– Hỏi vợ cho cháu Hiếu.
Tôi và cô Lương có một tình bạn dài nửa thế kỷ.
Tình bạn của chúng tôi bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô, cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nổi tiếng nhờ món bún mọc.
Tôi sẽ không tả nó ngon như thế nào. Không ai có thể tả được cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết.
Chỉ có thể nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về món này không ai cạnh tranh được với cô.
Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm ai đến trước, ai đến sau, lần lượt múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm, húp bỏng miệng.
Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế.
Đến đây tôi phải nói ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương không phải là một cô. Cô không phải đàn bà.
Trở thành khách quen của gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi.
Có người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng – Lương không phải cô đồng. Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con nhang?) đệ tử, sao gọi thế được.
Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích.
Đơn giản hoá nó, sơ lược hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho ra vẻ khoa học là không được.
Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con giống bố như đúc.
Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son nhẹ lên môi.
Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, như thể đàn bà. Thế mới thành cô Lương.
Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của thế hệ tôi, là nói bậy.
Tôi là người không háo lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon đả:
– Kìa, anh giai! – rồi khi múc bát mọc rồi, cô tươi cười hỏi, không thể nói rằng cô hỏi lấy lệ – Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Anh giai sành một cây, em biết tính ông anh mà, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa?
Rồi lại sợ mất lòng một ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả:
– Nói vậy chứ bách nhân bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải không ạ?
Hoặc:
– Anh giai nom có vẻ mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui.
Tôi đỏ mặt vì những lời chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn.
Họ đùa cợt bảo: là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại hai chúng tôi có duyên tiền kiếp.
Đùng một cái, không thấy cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu.
Khách hàng nghiện bún mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn, chưng hửng dắt xe đi.
Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương, một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết.
Cô Lương đến xin đặt nhờ gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông vô điều kiện.
Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào cho ông.
Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ.
– Cô ấy cứ giúi vào tay, bắt tôi phải nhận. Chứ tôi cũng không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào.
Vỉa hè nào phải của tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy.
Hoá ra trong những ngày ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ?
Tôi gặp lại cô Lương ở một nơi mà cả hai đều không ngờ: Trại tị nạn Hồng Kông.
– Giời ạ, cậu?! – trông thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào – Cậu, sao lại ở đây?
– Thì có gì lạ?
– Cậu là cán bộ kia mà.
Cô Lương thay đổi đến khó nhận ra: Son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một hàng ria nham nhở.
Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng “cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau, cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ.
Khi dùng với người ngoài nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có dòng dõi hoặc thuộc vai vế xã hội trên mình.
– Cán bộ thì đã sao? – tôi ôm chầm lấy cô – Đến đây lâu chưa?
– Hai năm rồi. Còn cậu?
– Mới.
– Em tưởng chỉ có dân chúng em khổ quá mới phải ra đi thôi – cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu lại phải đi?
– Chuyện dài – tôi đáp – Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao cô lại dẹp hàng, rồi ở đây?
– Cũng là chuyện dài, cậu ơi.
Chuyện dài ấy là thế này:
Trước, hai mẹ con cô Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát.
Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng, họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: Sắt vụn, nồi thủng, mâm bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa.
Để được phép làm việc ấy, tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp pháp.
Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ, Hà Đông, làng này nổi danh cả nước về nghề giò chả.
Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống.
Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt tuột mọi thứ – gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột Vốn liếng thế là tong.
Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui ở trong nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ loại quan nha, chức sắc: Cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an khu vực… mới yên.
Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến.
Cuộc sống vất vả làm sức khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi làm thuê cho một quán phở chui.
Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương mới dám nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ con.
Ai ngờ một gánh bún mà làm nên cơ đồ.
Cô Lương trở nên giàu có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì.
Có đồng ra đồng vào, cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Người dư dả đồng tiền ngẩn ngơ không biết dùng nó làm gì.
Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái giàu, không được hở cho bất cứ ai.
Đã trở thành thói tục người này theo dõi người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô, như các cụ nói, như mèo giấu cứt. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày?
Nhờ ông anh họ mách nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành đồ cổ, nhất là trong lĩnh vực gốm sứ, tôi có nghe tiếng.
Ngay Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời ông cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các chuyên gia không thống nhất..
Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng ông không được nhận vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn quyền.
Ông khuyên cô:
– Chú cứ nghe tôi: để tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng.
Nó là thứ không thiu không thối, càng để lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên.
Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa.
Nhà nước mua lại đồ cổ của dân bằng giá rẻ mạt, như cướp không, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng.
Mình trả cao hơn nhà nước là người ta bán. Quen rồi, người nọ mách người kia, chú sẽ mua được khối thứ. Mua rồi cứ để đấy.
Cô hỏi ông anh:
– Mua để đấy phỏng có ích gì?
– Xì, chú không biết nhìn xa.
– Là thế nào ạ?
Ông nói chắc nịch:
– Thể nào rồi cũng có một ngày khác bây giờ. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của.
Cô Lương nghe lời ông anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ quý, cô mua.
Dần dà, nhờ sự dạy dỗ của ông anh, cô cũng trở thành một chuyên gia đáng nể.
Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần.
Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu một số đồ độc nhất vô nhị. Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn kim hết.
Thế rồi một ngày kia có người chào cô mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay.
Cũng ngay đấy công an ập vào khám để tìm những hiện vật Viện bảo tàng vừa mất trộm. Người ta tìm ra tức khắc – chính là mấy cái đĩa ấy.
Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác, người ta thu tất tần tật các thứ cô tích cóp được trong mấy năm trời.
Cô Lương bị bắt vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là giam cứu.
– Rồi họ xác minh cô vô tội?
– Làm gì có chuyện ấy?! – lần đầu tiên tôi thấy cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không nhận thì cứ ở đấy.
– Rồi cô nhận?
– Chứ sao.
Ra tù, cô trắng tay. Với tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế. Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự, không còn ý chí, không còn ham muốn.
Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ:
– Chú đi đi, chú đã bị bỏ tù một lần, coi như có vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm. Bây giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi – Cũng là tại cái thằng tôi chú mới sa vào vòng tù tội…
Chuyện vượt biên xưa như trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai. Người có số may mắn hiếm lắm.
Tôi bằng lòng đi Berlin với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử thế nào với nhà gái cho phải phép.
Ở nhà cô, một chàng trai cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi.
– Cháu Hiếu đấy – cô Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu.
– Chào cháu – tôi chào nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy.
– Gutten tag … – nhìn tôi, nó nói – Bác khoẻ?
Cô Lương liếc tôi, cái nhìn biết lỗi.
– Khi chúng mình gặp lại nhau, cháu mới bằng ngần này. – tôi cười xuề xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ được tôi là ai.
Nghe cô kể thì thằng Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao.
– Ba, con ra tiệm nét một lát – nó bước ra cửa – Con đi chếch meo. Ba với bác chuẩn bị sẵn sàng nhé!
Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”.
Đi ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay:
– Chuýt!
Thì ra cái Audi đen bóng đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó.
– Bọn trẻ giờ thế cả. Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây cả. Nó vừa nói cái gì vậy, cậu?
Tôi giải thích. Cô Lương không biết computer là cái gì.
– Cậu đừng chấp – cô Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết.
Em mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật.
Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá.
– Vẽ, đi là đi. Tôi nói rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi.
– Thằng Hiếu lấy Tây hay ta đấy?
– Ta, cậu ạ. May thế!
Cô chị thằng Hiếu lấy Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác, gút tần nác với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm.
Cô còn rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó.
Cô phân trần:
– Nhà gái đòi phải có chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được. Đùng một cái, ông bố vợ nó bị đâm xe.
– Nặng không?
– Nặng, mới khổ. Bà mẹ vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người ta.
Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang.
– Hiểu rồi. Cô biết nhà gái chứ?
– Thằng Hiếu có nói gì trước với em đâu.
Mặt cô Lương chảy dài. Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù xuống.
Làng chúng tôi ở miền Nam nước Đức. Làng nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này đều thế: Gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện, cửa hàng dược phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị.
Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng tôi:
– Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin, ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó xỉnh.
Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với tôi trên con đường làng hẹp – Sorry bác, mấy ông khốt giống nhau như đúc, sợ thay đổi như sợ cọp…
Cô Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi.
– Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục – Khác hẳn bố cháu. Còn nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ một resto trên năm chục bàn.