Hình minh hoạ. Một banner cổ động, ca ngợi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên đường phố Hà Nội hôm 25/1/2021. Reuters
Đảng cộng sản Việt Nam đang tìm kiếm phương thức thích hợp để lãnh đạo nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường. Chưa có tiền lệ trong quá khứ, cần duy trì tính chính danh của chế độ đảng toàn trị và kiên định chủ nghĩa Mác – Lenin bằng tăng trưởng kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi mô hình Trung Quốc… nhưng thiếu nền tảng lý thuyết cho các chính sách phát triển phù hợp khiến cho kinh tế và thể chế ‘bất ổn’. Vài năm gần đây dường như tư duy Lenin đang ‘thắng thế’ và được Đảng vận dụng để ứng phó trước tình hình khó khăn cấp bách, bởi vậy kết quả đón đợi có thể nhất thời thay vì những chính sách chuyển đổi bền vững.
Bài viết phân tích việc vận dụng tư duy Lenin trong hai lĩnh vực kinh tế và tổ chức bộ máy có liên quan đến nhau với mục đích gợi mở cho chính sách phát triển bền vững. Trước hết, tư duy thực dụng về kinh tế.
Thực dụng về kinh tế Lịch sử ghi lại rằng V.I. Lenin (1870-1924) có một đặc tính cá nhân đặc sắc là người có tính thực tế, vị lợi, không câu nệ vào các lý thuyết giáo điều, nhiều thủ đoạn chính trị. Phương châm của ông là "Có lợi là làm" bất chấp các quy tắc đạo đức mà ông cho là thuộc "tiểu tư sản"…
Như đã biết, ông từng là người đứng đầu chính phủ của nước Nga Xô Viết từ năm 1917 đến năm 1924 và của Liên Xô từ năm 1922 đến năm 1924. Ông đã phát triển một biến thể của chủ nghĩa Marx được gọi là chủ nghĩa Lenin. Dưới sự lãnh đạo của ông, Nga, và sau đó là Liên Xô, trở thành một nhà nước độc đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin.
Hình ảnh Karl Marx và Vladimir Lenin treo cạnh các áo có cờ Việt Nam trên đường phố Hà Nội hôm 30/1/2019. Reuters
Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền ‘non trẻ’ sau cuộc nội chiến tàn khốc, với tư duy thực tế, V.Lenin đã đề ra "Chính sách kinh tế mới – НЭП” cho phép sử dụng các công cụ kinh tế tư bản chủ nghĩa, như xoá bỏ trưng thu nông sản và nông dân được tự do mua bán, mở chợ; tư nhân được mở các xí nghiệp nhỏ và tự do mua bán nguyên liệu; các công ty tư bản nước ngoài được phép thuê xí nghiệp, khai thác hầm mỏ… trong sự kiểm soát, dẫn hướng của nhà nước. Chính sách này đã nhanh chóng phát huy tác dụng, giúp phục hồi kinh tế.
Hơn thế, cũng chính V. Lenin đã có nhận định rằng, kinh tế tư bản nhà nước là điều kiện cần thiết để chuyển sang xã hội chủ nghĩa ở một nước còn trong tình trạng tiểu nông như nước Nga thời bấy giờ. Cương lĩnh cho thời kỳ quá độ xây dựng cơ sở vật chất để đi lên chủ nghĩa xã hội được xây dựng, trong đó để công nghiệp hóa, hiện đại hóa ông chủ trương “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các Tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ +... = tổng số = chủ nghĩa xã hội”.... Ý tưởng này của ông cũng đã phát huy tác dụng trong điều kiện kinh tế tập trung thời kỳ đầu công nghiệp hoá Liên bang Xô Viết…
Nhiều thế hệ lãnh đạo cộng sản biết rõ điều này, nhưng việc vận dụng đã không thực sự mang lại kết quả mong muốn. Tư duy thực dụng về kinh tế mang lại sự tăng trưởng kinh tế nhờ các dòng vốn đầu tư bởi các công ty tư bản nước ngoài. Chính sách “mèo đen, mèo trắng’ của Đặng Tiểu Bình đã khiến Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế đã tạo nên mô hình cho các nước đang phát triển. Kiểu tư duy này cũng được áp dụng ở Việt Nam trong đường lối ‘Đổi mới’ dưới tên gọi "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", nhưng ý thức hệ giáo điều đã cản trở chính sách cải cách thể chế chính trị phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Quan điểm đấu tranh giai cấp, nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lenin, đã ‘nhường chỗ’ cho chính sách thu hút tư bản để tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân…. Tuy nhiên, tình trạng chia rẽ xã hội và phân biệt đối xử về thành phần kinh tế vẫn nặng nề, kinh tế tư nhân chỉ được coi là động lực quan trọng trong Nghị quyết 10 của Đảng năm 2018. ‘Chính phủ kiến tạo’ trong nhiệm kỳ 12 khởi động khuyến khích kinh doanh bằng cách tạo thuận lợi và dỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính và luật pháp…. Tư duy thực dụng về kinh tế đang thắng thế dù muộn mằn.
Tư duy về cải cách nhà nước Trước nguy cơ tồn vong của Đảng và chế độ và, để thích hợp hơn với thể chế kinh tế tư duy về cải cách bộ máy nhà nước cũng đang có thay đổi, trong đó như một giải pháp cấp bách “chỉnh đốn” nội bộ và chống tham nhũng được phát động và tăng cường. Những ‘chỉ giáo’ của V. Lenin về tầm quan trọng, quyết định của công tác tổ chức và cán bộ được nhắc đến nhiều hơn rằng, ‘nếu có được bộ máy cai trị mạnh ông có thể xoay chuyển tình hình nước Nga.’
Trong sáu năm (1918-1924) đứng đầu chính quyền, Lenin đã nhấn mạnh yêu cầu phải nâng cao chất lượng hoạt động của ‘Bộ dân ủy thanh tra công nhân’, phải xây dựng bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc “Thà ít mà tốt”, “Cách mạng cần được thực hiện bằng những bàn tay trong sạch”… Tư liệu lịch sử cho thấy Lenin rất nghiêm khắc với tệ tham ô. Năm 1923 có trường hợp khi toà án Moskva xử nhẹ một vụ ǎn hối lộ, ông đã viết: “Không xử bắn bọn ǎn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc đáng xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng…”. Lenin cũng nghiêm khắc với chính bản thân mình. Cán bộ quản trị của Trung ương từng có lần thanh toán tiền mua sách cho ông từ ngân sách của chính phủ. Lenin đã viết thư cho vị quan chức này, có đoạn: “Sách tôi mua tôi tự thanh toán. Yêu cầu đồng chí sau khi khỏi ốm tới nhận tiền và cho giấy biên nhận”. Ông đã phản đối những chế độ ưu đãi…
V. Lenin là người đầu tiên hiện thực hoá tư tưởng về nhà nước của K. Marx và F. Engel trong bối cảnh nước Nga Xô Viết, trong đó nhà nước chuyên chính vô sản được coi là hình thức quá độ chính trị từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Theo ông: “Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, và theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với một giai cấp khác…”. Tuy nhiên, sau này thực tế cho thấy bản chất ‘kinh tế’ của nhà nước đã không được tính đến là ‘thiếu sót’ mang tính lịch sử. Theo F. Engel, đó là: “Nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh dưới hình thức tập trung những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất…”
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người vừa tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba tại Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hà Nội hôm 1/2/2021. Reuters
Việc ‘theo đuổi’ thành tích tăng trưởng kinh tế cho đến khi bộ máy cai trị và ‘bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên lãnh đạo’ suy thoái về tư tưởng và đạo đức đến mức buộc giới lãnh đạo phải công khai thừa nhận và phải đối phó một cách bị động. Trước đó, đã có những cảnh báo về cải cách kinh tế đã ‘tới hạn’ nếu không cải cách chính trị, nhưng đã bị bỏ qua. Thực trạng ‘suy thoái’ của quan chức là nghiêm trọng, mạng lưới bảo trợ chính trị chằng chịt, nhóm lợi ích và quốc nạn tham nhũng nặng nề…. Một ‘nhà nước tư bản thân hữu’ được hình thành trong lòng chế độ đảng toàn trị. Ông Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei), Giáo sư Đại học Claremont McKenna, Hoa Kỳ, đã phân tích sâu sắc kiểu nhà nước này trong tác phẩm “Tư bản thân hữu Trung Quốc”. Đây chính là nguồn gốc tha hoá quyền lực và bất ổn chính trị. ‘Kinh tế tư bản nhà nước’ như mô hình quá độ theo dự đoán của Lenin đã không thể xảy ra.
Thực tế đã đòi hỏi phải cải cách sâu rộng thay vì chỉ ‘chỉnh đốn’ nội bộ và chống tham nhũng kiểu ‘tự lấy đá ghè chân mình’ như những giải pháp cấp bách, chỉ mang lại kết quả tạm thời, chi phí cao. Ngoài ra, việc kiểm soát quyền lực đòi hỏi người đứng đầu cần phải có trí tuệ sáng suốt và đạo đức cao cả. Cơ chế giải trình trách nhiệm cũng phụ thuộc vào ‘minh vương’. Việc kéo dài quyền lực Tổng bí thư đảng sang nhiệm kỳ thứ 3, phá vỡ quy định của Điều lệ đảng, sự kiện gây ‘bất ngờ’ tại Đại hội 13 mới đây, minh chứng cho nhận định trên. Việc tìm kiếm người kế vị xứng đáng ngôi ‘minh vương’ đang gặp khó khăn thách thức có thể coi là dấu hiệu cảnh báo ‘sự bất ổn thể chế’ vẫn tiếp diễn.
V.I. Lenin được những người cộng sản ca ngợi là lãnh tụ thiên tài của cách mạng vô sản Nga. Tạp chí Time đã vinh danh ông là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ XX, và là một trong 25 biểu tượng chính trị hàng đầu qua mọi thời đại….
Tuy nhiên, bài học lớn nhất để vận dụng tư duy thực dụng của Lenin có lẽ chính là ở chỗ không được để cho ý thức hệ giáo điều níu kéo cải cách và, hơn thế, cải cách cần song hành cùng xu thế chuyển đổi dân chủ với những giá trị phổ quát. Để cải cách toàn diện và bền vững, theo tôi, cần xuất phát từ nhà nước và, trước hết, nên chăng cần khởi động xây dựng một bộ luật về Đảng.
TS. Phạm Quý Thọ (Blog RFA)
Sửa bởi người viết 08/03/2021 lúc 11:24:46(UTC)
| Lý do: Chưa rõ