Hình chụp ngày 10 tháng 12, 1962. John Steinbeck (phải), tại lễ nhận giải Nobel Văn Chương từ Quốc Vương Gustav, Stockholm, Thụy Điển. (AP)
Giải Nobel Văn chương 1962 được trao cho toàn sự nghiệp của John Steinbeck; nhà văn Mỹ thứ 6 được giải Nobel tiếp theo sau Ernest Hemingway 1954. [photo from the Nobel Foundation archive]
JOHN STEINBECK, NOBEL VĂN CHƯƠNG 1962Sinh ngày 27/02/1902 tại Salinas, miền trung California. Sống và lớn lên trong một vùng thung lũng đồng quê xanh tươi, còn được gọi là “Salad Bowl” với dòng sông Salinas. Xong trung học (1919), có ước vọng viết văn, Steinbeck ghi tên học môn Văn chương Anh và cả lớp Viết văn / Creative writings tại Đại học danh tiếng Stanford, Palo Alto. Năm 1923, Steinbeck ghi tên học thêm môn Sinh Học / Biology tại Hopkins Marine Station, tại đây Steinbeck quen biết với William E. Ritter và quan tâm nhiều hơn tới Môi sinh / Ecology. Do theo học thất thường, ông rời Stanford 6 năm sau (1925) và không có một học vị nào. Steinbeck quyết định sang New York lập nghiệp, ông làm đủ loại công việc lao động tay chân để kiếm sống và tập sự làm báo, viết văn nhưng không thành công, không nhà xuất bản nào nhận in cuốn sách đầu tay của ông.
Trở về California 3 năm sau (1928), Steinbeck cũng làm đủ mọi nghề, kể cả hướng dẫn du lịch ở Lake Tahoe, nhưng vẫn túng quẫn. Ông dọn về sống trong căn nhà nhỏ của cha ở vùng bán đảo Monterey; không phải trả tiền nhà lại được người anh giúp đỡ, không bận bịu mưu sinh, ông tập trung viết văn. Nhưng cuộc sống lại chật vật khi cả nước Mỹ bước vào thời kỳ Đại Suy Thoái. Steinbeck mua được một chiếc tàu nhỏ, thử sống bằng nghề đánh cá ven biển, cá cua lưới bắt được cũng là nguồn thực phẩm cho gia đình, còn rau tươi thì hái lượm ngay trong vườn nhà; vẫn không đủ sống, vợ chồng ông phải sống bằng tiền trợ cấp xã hội / welfare.
Tuy vẫn viết nhưng Steinbeck chưa gây được tiếng vang nào. Phải mãi tới 7 năm sau (1935), với cuốn Tortilla Flat tên tuổi ông mới được biết tới. Lấy bối cảnh là vùng Monterey, California nơi ông sinh sống, thời gian sau Thế chiến I, mô tả đời sống của đám dân quê / paisanos nghèo khổ, sống bầy đàn, chỉ biết hưởng thụ với rượu, ham muốn xác thịt / lust, và trộm cắp vặt / petty theft. Họ là nạn nhân của hoàn cảnh lịch sử. Tortilla Flat bắt đầu được giới phê bình đón nhận và cả thành công về tài chánh.
Tiếp theo 2 năm sau, là cuốn
Của Chuột và Người (Of Mice and Men,1937), “là một bi kịch của hai nông dân tha phương cầu thực với giấc mơ có được một mái nhà, một mảnh vườn nhưng rồi vẫn phải sống một cuộc đời làm công lang thang khổ cực. George Milton nhỏ con nhưng khôn lanh và gã kia là Lennie Small, tuy có tên “Small” nhưng lại to xác rất mạnh và đần độn, tính khí dữ dằn bất thường khiến hắn phải lệ thuộc vào George trong sinh hoạt khó khăn hàng ngày – tác phẩm chỉ với hơn 100 trang sách mà sau này được Hội đồng giải Nobel văn chương 1962 gọi đó là một “tiểu tuyệt phẩm / a little masterpiece”.
Rồi tới
Chùm Nho Uất Hận (The Grapes of Wrath, 1939), kể chuyện về một gia đình nông dân Joad từ vùng Oklahoma, do một
thảm nạn môi sinh Dust Bowl mất hết trang trại đất đai phải rời bỏ quê nhà di cư sang California, vùng đất của “sữa và mật ngọt” để mưu tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng rồi họ đã phải đối đầu với vô vàn khó khăn, không có công ăn việc làm, tiền công thì quá thấp và rơi vào cảnh nghèo khó hơn. Cuốn sách được Steinbeck viết bằng một ngôn ngữ trần trụi / plain spoken language giàu hình ảnh, tố cáo lòng tham của đám chủ trại giàu có, đưa tới những bất công xã hội. Thái độ phê phán đó khiến Steinbeck trở thành khuôn mặt khó ưa ngay nơi quê nhà. Nhóm nghiên cứu Đại học Stanford, mới đây đã đánh giá
Steinbeck như một nhà văn của môi sinh.
[9]Năm 1940, Steinbeck được giải thưởng National Book Award với cuốn Chùm Nho Uất Hận. Tác phẩm này cũng nhận được thêm một giải Pulitzer danh giá khác. Cuốn sách liên tục được tái bản.
Cả hai cuốn
Của Chuột và Người và
Chùm Nho Uất Hận được viết trong bối cảnh thời kỳ Suy Thoái của thập niên 1930s, là 2 tác phẩm đỉnh cao trong văn học Mỹ được coi là tuyệt tác của John Steinbeck. Cả hai đều được chuyển thể thành phim. Henry Fonda đóng vai Tom Joad trong Chùm Nho Uất Hận đã được đề cử là tài tử xuất sắc nhất cho giải Academy Award.
Tuy thành công nhưng Chùm Nho Uất Hận cũng gây ra nhiều dư luận bất lợi cho Steinbeck, do khuynh hướng xã hội triệt để – Steinbeck bị gán cho là thiên cộng / suspected communist leanings, do mạnh mẽ bênh vực tầng lớp lao động cơ cực bị bóc lột bởi một giới tư bản giàu có, đầy quyền lực sở hữu phần lớn đất đai và các trang trại, cùng liên kết với nhóm tài phiệt chủ các ngân hàng. Chùm Nho Uất Hận xuất bản lần đầu tháng 04/1939 và trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ nhưng ngay nơi quê nhà, cuốn sách bị lên án là “tục tĩu / obscene, trình bày sai sự thực / misrepresented” với những mô tả tiêu cực về đời sống di dân tới California.
Cuốn sách hai lần bị đốt công khai ở Salinas. W.B. “Camp” viên chủ nhân giàu có với các trang trại trồng bông và khoai tây, khi tới chủ toạ buổi đốt sách ở thị trấn Bakersfield đã tuyên bố: “Chúng ta giận dữ không phải vì bị ai đó tấn công, nhưng chúng ta đã bị tấn công bởi một cuốn sách tục tĩu theo cái ý nghĩa tệ hại nhất của từ ngữ này – a book obscene in the extreme sense of the word.” Nhưng lúc đó cũng có người can đảm như Gretchen Knief, trông coi thư viện Kern County, cô không sợ bị đuổi việc vẫn lên tiếng cảnh báo: “Nếu cuốn sách ấy bị cấm hôm nay, liệu sẽ có thêm cuốn sách nào bị cấm ngày mai?”
Chùm Nho Uất Hận bị Kern County Board cấm trong các trường học và thư viện (1939), và chỉ được giải toả hai năm sau đó (1941).
Trong Thế chiến Thứ II, Steinbeck có thời gian làm phóng viên chiến trường cho tờ New York Herald Tribune (1943), đi sát theo các đơn vị xung kích đổ bộ tấn công quân Đức ở Ý, trên các hải đảo Địa Trung Hải. Steinbeck bị thương trở về với cả chấn thương tâm lý; ông tự vượt qua bằng miệt mài trong viết lách.
Năm 1947, Steinbeck là một trong số những người Mỹ hiếm hoi đầu tiên được đi thăm Liên bang Xô Viết sau Cách mạng Nga, cùng đi với ông có phóng viên nhiếp ảnh Robert Capa. Cuốn sách Nhật Ký Nga / A Russian Journal được xuất bản một năm sau (1948) với phần hình ảnh của Capa. Chính quyền Cộng sản Xô Viết lúc đó đánh giá Steinbeck như một “nhà văn Mỹ tiến bộ - American progressive writer” với cái nghĩa tả khuynh theo chủ nghĩa xã hội.
John Steinbeck tại chốt kiểm soát quân sự từ phía Tây Berlin, 11 tháng 12, 1963. Có một khoảnh khắc, Steinbeck chống lại một lính gác ở phía Đông và bước qua lằn sơn trắng phân cách biên giới Đông và Tây Đức. Ông thăm Berlin 5 ngày trong chuyến thăm Châu Âu 2 tháng, kết thúc bằng chuyến thăm Moscow. (AP Photo/Edwin Reichert)
Trong cùng năm, Steinbeck được bầu vào Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Học Hoa Kỳ / American Academy of Arts and Letters.
Năm 1952, tiểu thuyết trường thiên Phía Đông Vườn Địa Đàng / East of Eden được xuất bản, Steinbeck coi đó là tác phẩm lớn nhất của ông (magnum opus), sau này lên phim (1955) với James Dean, một tên tuổi điện ảnh trẻ tài năng trong vai Cal Trask.
Năm 1961, Steinbeck cho xuất bản Mùa Đông Bất Bình / The Winter of Our Discontent, viết về sự suy đồi đạo lý của nước Mỹ, và không được giới phê bình đánh giá là một thành công.
Năm 1962, trong sự ngạc nhiên của chính Steinbeck, ông được trao giải Nobel văn chương cho toàn sự nghiệp văn học, “do những trang sách viết trộn lẫn hiện thực và tưởng tượng, kết hợp sự u mặc tinh tế và ý thức xã hội sắc bén – for his realistic and imaginative writings, combining as they do sympathetic humour and keen social perception”. Các nhân vật của ông đều là nạn nhân của lịch sử, của thời kỳ suy thoái. Giải Nobel trao cho Steinbeck lúc đó đã bị báo chí Thuỵ Điển chỉ trích nặng nề, ngay cả tại Mỹ. Nhưng sau này, Steinbeck được mệnh danh là “gã khổng lồ của văn giới Mỹ – a giant of American letters”, với một số tác phẩm được xem như văn học cổ điển Tây phương”.
Cũng thật trớ trêu, tuy đã là khôi nguyên của giải văn chương Nobel, nhưng theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ / American Library Association, thì Steinbeck là một trong số 10 tác giả từng bị cấm đoán và chỉ trong khoảng thời gian từ 1990 tới 2004, riêng cuốn Of Mice and Men xếp hàng thứ 6 trong số 100 cuốn bị cấm ở Mỹ.
Năm 1964, Steinbeck được Huân chương Tự do của Tổng Thống / Presidential Medal of Freedom, từ TT Johnson là bạn ông và Steinbeck cũng đã từng viết diễn văn cho TT Johnson.
CỦA CHA VÀ CON STEINBECK GIỮA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
John Steinbeck có 2 con trai với bà vợ thứ hai Gwyndolyn Conger. Thomas Myles Steinbeck, là con cả sinh năm 1944 và John Ernst Steinbeck IV là con thứ sinh năm 1946. Tới giai đoạn Mỹ tham chiến ở Việt Nam, cả hai con trai Steinbeck đều tới tuổi quân dịch và bị động viên.
Khi John IV, đứa con thứ 2, vừa xong lớp tập huấn quân sự và sắp lên đường sang Việt Nam, Steinbeck hãnh diện dẫn con tới thăm và bắt tay TT Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House. John IV, tới Việt Nam trong vai trò phóng viên chiến tranh, làm cho đài phát thanh và truyền hình quân đội Mỹ trấn đóng ở Pleiku. Rồi tới đứa con trai cả Thomas Myles Steinbeck cũng nhập ngũ trấn đóng ở Fort Ord, California và có thể cũng sẽ phải sang Việt Nam.
Khi Mỹ quyết định ồ ạt đưa quân qua tham chiến ở Việt Nam (1965), Steinbeck tuy không còn trẻ nữa ở tuổi 64, giữa cao điểm cuộc chiến tranh đang leo thang, ông có ý định sang thăm Đông Nam Á trong vòng 5 tháng. Steinbeck không xa lạ gì với chiến tranh, từng là phóng viên chiến trường trong Thế chiến II. Lần này Steinbeck đến Việt Nam, vẫn như một phóng viên chiến trường, cho tờ báo Newsday, Long Island, New York. John Steinbeck đã đi khắp miền Nam Việt Nam, trong vòng 6 tuần lễ, [ từ tháng 12.1966 tới đầu năm 1967 ].
John E. Steinbeck và con trai John IV 19 tuổi tới thăm và bắt tay Tổng thống Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House ngày thứ Hai 16/ 05/ 1966 trước khi lên đường sang Việt Nam. Steinbeck là bạn của Tổng thống Johnson từ 1963. Cuộc gặp gỡ 4 phút theo yêu cầu của Steinbeck. [nguồn: tài liệu LBJ Library and Museum]
Từ lâu, Steinbeck đã có thái độ khinh mạn các nhóm phản chiến, xem họ như thành phần bạc nhược khi so sánh với những người lính Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Ông không chỉ lên án họ, Steinbeck còn có ý tưởng kỳ lạ là phải đem bọn phản chiến này thả vào đường mòn Hồ Chí Minh để xem bọn chúng sống ra sao.
Do danh tiếng của Steinbeck với giải Nobel và cả mối liên hệ quen biết với TT Johnson, Steinbeck được đối xử rất đặc biệt, di chuyển với máy bay riêng thường cùng đi với cấp chỉ huy quân sự cao cấp Mỹ, kể cả với tướng William Westmoreland, và Steinbeck cũng thường xuyên được “briefing – tường trình” về tình hình chiến sự với bức tranh màu hồng về tương lai thắng lợi của Mỹ ở Việt Nam.
Thường là ban ngày có mặt nơi chiến trường, nếu không quá xa Sài Gòn và không phải ở lại qua đêm, buổi tối Steinbeck trở về khách sạn Caravelle, dùng bữa tối trong một nhà hàng sang trọng trên lầu 9, từ nơi đây vẫn có thể thấy ánh hoả châu và cả tiếng trọng pháo từ xa vọng về. Những Lá Thư gửi Alicia / Letters to Alicia được viết ở đây. [Alicia Patterson – là tên người vợ của Harry Guggenheim, đồng sáng lập tờ Newsday, Alicia là nhà báo tên tuổi, được giải thưởng báo chí Pulitzer, nhưng Alicia đã chết trước đó 3 năm].
Đặt chân tới Việt Nam, ngay từ đầu, Steinbeck bị mê hoặc với những vũ khí tối tân của quân đội Mỹ, điều mà ông chưa từng được thấy trong Thế chiến thứ II. Như khi ông chứng kiến những chiếc máy bay DC3 “Hoả Long –Puff the Magic Dragon” trang bị những cỗ đại liên với hoả lực khủng khiếp, chỉ trong vòng vài giây có thể nhả đạn 50-ly bao trùm khắp một sân banh rộng lớn khi lâm trận như một con rồng phun lửa. Steinbeck rất chủ quan cho rằng, “với trang bị vũ khí tối tân như vậy làm sao mà Mỹ có thể thua cuộc chiến tranh trước đám địch quân quê mùa ấy.”
Steinbeck cũng từng đeo súng M-16 ra bãi tập bắn. Có điều mà Steinbeck không được cho biết là, khác với khẩu AK của VC, súng M-16 trang bị cho lính Mỹ lúc đó thường bị hóc đạn ngoài trận địa; scandals chết người đó đã không bao giờ được Steinbeck ghi lại trong những lá thư viết từ Việt Nam cho tờ Newsday.
Chỉ 6 tuần lễ sống trong vùng chiến, được bảo vệ an toàn, làm sao John Steinbeck hiểu được rằng: quân cộng sản Bắc Việt lúc ấy cũng đã được trang bị với những vũ khí tối tân nhất của Liên Xô và Trung Quốc, và ngay ở lãnh thổ miền Bắc lúc đó đã có hàng sư đoàn quân chí nguyện Trung Quốc giả dạng quân Bắc Việt với những dàn hoả tiễn phòng không tối tân sẵn sàng nghênh chiến với hàng đoàn phản lực cơ Thần Sấm từ Hạm đội 7 bay vào oanh tạc miền Bắc.
[6] Sự kiện lớn lao và quan trọng như vậy mà trong bộ chính sử mới nhất của Hà Nội cho đến nay vẫn còn giấu giếm, đó là trong cuộc chiến tranh để đối phó với Mỹ và miền Nam, giữa giai đoạn 1965 và 1970, thể theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông đã đưa sang miền Bắc VN 320.000 Hồng quân Trung Cộng. Tới 1968, Mao đưa thêm sang Lào 110.000 quân nữa (tổng cộng: 430.000 quân). Những sư đoàn “chí nguyện quân” ấy đã ẩn náu ở rất nhiều nơi trong các hang động như ở Lạng Sơn, Hà Nam, hay sống trong các khu rừng biệt lập, sinh hoạt kín đáo và không được phép tiếp xúc với dân chúng.
[6B]Nhiều chi tiết về “đạo quân ma” ấy cũng được viết ra trong cuốn
“The Dragon in the Jungle, The Chinese Army in the Vietnam War” của Lý Tiểu Bình / Xiaobing Li do Oxford University Press xuất bản 2020.
[4] Đến nay (2021) vẫn còn tìm thấy những khu hang động trong núi rừng miền Bắc đã bỏ hoang ấy với các khẩu hiệu chữ Hán lưu dấu trên vách đá như: Trung Việt hữu nghị vạn tuế, Hồ chủ tịch vạn tuế, Đả đảo Mỹ đế.
[8]…
Steinbeck được xem như phe “diều hâu / hawk” công khai ủng hộ sự tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt Nam mà ông coi đó một cuộc
dấn thân anh hùng / heroic venture, thái độ hiếu chiến của Steinbeck đã gây nhiều phản cảm trong công luận Mỹ và ngay chính trong gia đình ông lúc bấy giờ. Ở Mỹ, Steinbeck lúc đó không chỉ bị căm ghét bởi giới trí thức cánh hữu, ngay cả phe tả có người không ngần ngại gọi ông là “phản bội / betrayal”.
[2] “Diều hâu Steinbeck” với súng nón sắt và áo giáp trong hầm cá nhân / foxhole trên một trận địa phía Tây Nam thành phố Đà Nẵng ngày 21 tháng 12, 1966. Qua những bức thư viết từ tiền tuyến trên tờ Newsday, Steinbeck công khai ủng hộ sự tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Trong khi đó, John IV con trai Steinbeck, ngược với cha, là tiếng nói phản chiến mạnh mẽ, John IV sau này trở thành đệ tử của Ông Đạo Dừa nơi Cồn Phụng trên sông Mekong, Đồng Bằng Sông Cửu Long. [nguồn: AP]
John Ernst Steinbeck IV [06/12/1946 – 02/07/1991], hết thời gian quân dịch, được giải ngũ ngày 07/12/1967. Chỉ một thời gian ngắn về Mỹ, năm 1968 John IV trở lại Việt Nam trong vai trò nhà báo với khuynh hướng phản chiến – hoàn toàn đối nghịch với quan điểm của cha mình. John IV đã hợp tác với Sean Flynn [con của tài tử Errol Flynn] cùng làm tại Dispatch News Service, cung cấp cho truyền thông Mỹ những thông tin một chiều hết sức bất lợi cho Washington như vụ Thảm sát Mỹ Lai, câu chuyện Chuồng Cọp của trại giam Côn Sơn…
Trong khi John Steinbeck Cha vẫn còn sống, ngày 05/03/1968, sau Tết Mậu Thân, John IV đã ra điều trần trước một Uỷ ban Thượng viện Mỹ, nói ra những điều mà không một chính giới Hoa Kỳ nào muốn nghe, rằng: có tới 60% lính Mỹ tuổi từ 19 tới 27 nghiện cần sa / Marijuana, và chính cơ quan MACV cũng khuyến khích tình trạng nghiện ngập này bằng cách cung cấp thuốc gây nghiện như Amphetamines / hay còn được gọi là pep pills cho lính Mỹ. Như một scandal trên báo chí lúc bấy giờ, và đã có một đụng độ công khai giữa Pentagon và John IV.
Sự phân hoá
“Của Cha và Con – Of Father and Son” trong gia đình Steinbeck, cũng là hình ảnh bi kịch phân hóa của nước Mỹ trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
“Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the War” [1] (University of Virginia Press, 2012), có thể xem là những trang sách cuối đời gây chấn động của Steinbeck khi ông đã bước vào tuổi 64.
John Steinbeck được chẩn đoán có bệnh nghẽn mạch tim nhưng từ chối một cuộc mổ tim [ heart bypass surgery ]. Ông mất tại New York ngày 20/12/1968, giữa một trận đại dịch cúm (1968 flu pandemic) nhưng do suy tim, và ông cũng là người nghiện thuốc lá trong nhiều năm.
STEINBECK VÀ MỘT THOÁNG VIỆT NAM An Khê, Việt Nam 22/12/1966An Khê là thị xã của tỉnh Gia Lai trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam, nằm bên Quốc lộ 19 giữa Pleiku và Qui Nhơn. An Khê có giá trị chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ tháng 8/1965 Mỹ đã xây dựng trại Radcliff, là căn cứ chính của Sư đoàn Kỵ Binh Số 1 / US 1st Cavalry Division. Radcliff chỉ được trao lại cho Việt Nam vào cuối năm 1970 khi có chính sách Việt Nam hoá cuộc chiến tranh, chuẩn bị cho Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Trước Giáng Sinh 2 ngày [22/12/1966], Steinbeck đã tới thăm căn cứ An Khê. Với hào quang của giải Nobel văn học, Steinbeck trông phong trần ở tuổi 64, trong bộ áo lính GI’s, buổi tối ngồi trên một chiếc thùng gỗ vây quanh là đám lính trẻ quân dịch / enlisted men, lứa tuổi con ông, nao nức tới gặp và nghe ông nói. Bằng ngôn ngữ bộc bạch, Steinbeck tâm sự: “Sáu tháng trước, tôi rất buồn vì 2 đứa con trai tôi bị động viên. Nhưng rồi 6 tháng sau, bởi Chúa / by God! Tôi hãnh diện vì chúng đã nên người. Đàn ông trai tráng thực sự là những giá trị hôm nay / valuable things today.” Con trai ông John IV thì đang đóng ở Pleiku; một đứa khác cũng trong quân ngũ đóng ở Fort Ord, Monterey California.
Có lần được phóng viên một tờ báo hỏi: Có phải Mỹ đang bị kẹt / locked in trong một cuộc chiến vô vọng không? Steinbeck nói: “Đó là một câu hỏi hài hước nhất,” ông tiếp:
“Mọi cuộc chiến tranh đều vô vọng nhưng là cần thiết, và cuộc chiến tranh này cũng là cần thiết.”Steinbeck cho biết ông tới đây để viết về cuộc chiến tranh, chủ yếu là những cảm tưởng của ông về cuộc chiến này.
Trong cuộc gặp gỡ, John Steinbeck trả lời mọi câu hỏi của đám GI’s về cuộc đời trải qua của ông nếu như không quá riêng tư. Rằng ông cũng đã từng làm phu bến tàu / longshoreman, sống với nông dân, lao động làm thuê hái bông / picked cotton. Có cả những chi tiết thú vị như toàn bộ tác phẩm của ông đều được viết tay / written in longhand chứ ông không đánh máy.
Các bản thảo viết tay với nét chữ rất đẹp của John Steinbeck. Chi tiết thú vị: Toàn bộ tác phẩm của ông đều được viết tay / written in longhand, chứ ông không đánh máy. (AP Photo/Bebeto Matthews)
“Có những câu hỏi của các bạn mà tôi chưa từng trả lời cho ai, nhưng tôi ngưỡng mộ những gì các bạn đang làm ở đây và đáng cho tôi kính trọng”. Ngồi nói chuyện suốt hai tiếng đồng hồ, với 2 ly cà phê, cũng đã thấm mệt, Steinbeck phải xin lỗi đám lính trẻ đang say sưa nghe ông nói, để đi ngủ. Cảm tưởng của một tân binh có mặt trong suốt buổi nói chuyện của Steinbeck, có thể tóm gọn trong một câu: “He just seems to radiate greatness / Ông ấy thực lớn lao toả sáng.”
[3]