CHỚ ĐỂ THỜI GIỜ QUA SÔNG
Thích Tâm Hạnh
Trong những lần được hầu chuyện và thưa hỏi đạo lý, Hòa thượng ân sư đã chỉ dạy và nhấn mạnh giá trị
của sự tu tập để sách tấn quý thầy. Có lần Ngài nói: “Tôi thấy mấy chú bây giờ còn trẻ mà sao để thời giờ
phí quá!”. Đang lắng nghe nói về giá trị đạo lý, bất chợt Hòa thượng bảo “sao để thời giờ phí quá”, quý
thầy giựt mình. Tự trong sâu thẳm lòng mình thôi thúc tôi tự hỏi:
“Như vậy lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và
bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa, không để lãng phí thời giờ đúng như lời Hòa
thượng tôn sư chỉ dạy?”
Từ suy nghĩ đó, hôm nay quý thầy sẽ nói chuyện với toàn thể quý vị đề tài: “Chớ để thời giờ qua suông”.
I/ CHƯ TỔ TÔN TRỌNG GIÁ TRỊ THỜI GIAN.
Trong bài “Tham Đồng Khế”, phần cuối, Thiền sư Thạch Đầu nói:
Cẩn bạch tham huyền nhân
Quang âm mạc hư độ.
Nghĩa là:
Kính bạch bậc tham huyền
Thời giờ chớ để luống qua.
Lời Ngài nhắc nhở thật là thiết tha! Ngay dưới bài đó, Thiền sư Pháp Nhãn có lời chú: “Ơn lớn vòi vọi khó
đền.” Tiếp theo lời chú của ngài Pháp Nhãn, một vị Thiền sư nổi tiếng nữa là Ngài Đức Hồng Giác Phạm,
còn có một hiệu khác là Tịch Âm tôn giả cũng có lời tán thán: “Pháp Nhãn quả là bậc thấy được tâm của
Tiên đức”. Có nghĩa là Ngài Pháp Nhãn đúng là một vị thấy được tâm của Ngài Thạch Đầu.
Bài “Tham Đồng Khế” nói lên chỗ của những vị tham thiền khế hợp, nói đến lý mầu huyền diệu cao sâu,
nhưng tại sao cuối bài Ngài lại nhắc “chớ để thời giờ luống qua”? Mới nghe qua thấy rất bình thường,
chắc Ngài cũng chỉ nhắc nhở cho mọi người biết quý tiếc thời giờ vậy thôi. Nhưng với Ngài Pháp Nhãn thì
thấy là một cái ơn lớn rất khó đền, Ngài Tịch Âm Tôn giả lại khen Ngài Pháp Nhãn là người thấy được
tâm của bậc tiên đức, có nghĩa là thấy được tâm từ bi tha thiết của Ngài Thạch Đầu. Quý vị có thấy được
tâm của ngài Thạch Đầu tha thiết thương chúng ta như thế nào chưa?
“Bậc tham huyền” là những hành giả tham cứu thiền thấu suốt đến chỗ huyền vi, tham tột đến chỗ yếu
diệu của đạo. Thiền sư Thạch Đầu nói “kính bạch bậc tham huyền, thời giờ chớ để luống qua”, tức là
Ngài thấy rõ và nói lên một cách chí thiết để nhắc thức cho những ai là người thiết tha tu hành, muốn đạt
đến chỗ sâu xa mầu nhiệm của đạo lý thì đừng để thời giờ luống trôi qua suông.
Quý Ngài là những bậc Tông sư lỗi lạc của một thời. Hơn thế nữa, ở đây cả ba bậc tác gia cùng xướng
họa khen nhau, có nghĩa là quý Ngài đã thầm khế hợp, đồng cảm thông nhau, cùng gặp nhau trong chỗ
yếu diệu. Từ đó thấy rõ tầm quan trọng thiết yếu và sự lợi hại của việc quý tiếc thời giờ cho nên hết lòng
răn nhắc người sau. Để thấu suốt, thấy rõ tại sao các Ngài lại đề cao và nhắc nhở người sau một cách
thống thiết như vậy, trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu tại sao phải quý tiếc thời giờ?
II/ TẠI SAO PHẢI QUÝ TIẾC THỜI GIỜ?
Nếu nói hết những nguyên nhân từ nhỏ nhặt cho tới lớn thì rất nhiều. Nhưng tóm gọn lại, theo quý thầy có
ba nguyên nhân chính.
1/ VÌ TRÂN QUÝ DUYÊN LÀNH ÍT CÓ, KHÓ ĐƯỢC MÀ NGÀY NAY MÌNH ĐÃ CÓ ĐƯỢC.
Khi nhận ra được một cái gì đó ít có và khó gặp thì chúng ta sẽ rất quý trọng, tìm cách giữ gìn và làm
cho nó tăng trưởng, không dám để bị cuốn mất đi. Nhưng thời gian trôi qua lại cuốn phăng cái quý báu
đó đi, chuỗi ngày còn lại để mình may mắn còn có được nó thì quá ít ỏi nên chúng ta rất tôn trọng, trân
quý. Chính vì trân quý như vậy cho nên không dám để một phút giây nào lơi lỏng, trôi suông.
1.a/ Thân người khó được.
Trong Kinh nói “Nhơn thân nan đắc, Phật pháp nan văn” có nghĩa là “Thân người khó được, Phật pháp
khó nghe”. Hiện nay chúng ta thấy con người ở trên quả địa cầu này quá nhiều, nhưng tại sao đức Phật
lại nói làm thân người khó được? Có mâu thuẫn hay không? Tuy trên quả địa cầu này đang có nhiều
chúng sanh được làm người, nhưng so với các chúng sanh ở những loài khác, chưa được làm người thì
quá nhiều cho nên chúng sanh đang được làm người vẫn còn rất ít.
Trong Kinh Tạp A-hàm đức Phật ví dụ, ví như cả đại địa đất liền này đều biến thành biển cả, trên biển đó
có một khúc cây trôi dạt từ đông sang tây. Có con rùa mù tuổi thọ sống đến một vạn năm, cứ mỗi một
trăm năm nó mới trồi đầu lên một lần. Quý vị thử nghĩ, con rùa mù đó có dễ dàng gặp được bọng cây trôi
dạt kia để chui vào trong hay không? Rất là khó! Vậy mà đức Phật nói được thân người còn khó hơn thế
nữa!
Cũng trong một bài kinh đức Phật nói, ví như đất dính ở trong móng tay của Ngài và đất của cả đại địa thì
những chúng sanh có được thân người chỉ như đất trong móng tay, còn những chúng sanh đi trong các
đường khổ chưa được làm người giống như đất của quả địa cầu này. Ngài đã dùng Phật nhãn xem thấy
rõ như vậy. Mới thấy, được làm thân người khó đến dường nào!
Vì vậy các bậc cổ đức nói:
Thiên niên thiết thọ khai hoa dị
Nhất thất nhơn thân vạn kiếp nan.
Nghĩa là “cả ngàn năm cây sắt mới trổ hoa một lần vẫn còn là dễ, nhưng một phen mất thân người rồi thì
muôn kiếp khó được lại”. Ngày hôm nay chúng ta đã hội đủ phúc duyên nên mới có được thân người
chứ không phải dễ dàng. Đã được làm thân người rồi, còn được đầy đủ căn trí, lại được gặp minh sư,
nghe pháp, đó là một điều khó hơn. Cái ít có, khó được mà ngày nay chúng ta đã có, đã được thì phải
biết trân quý, dốc hết lòng để giữ gìn và làm tăng trưởng duyên lành, không để bị thuyên giảm, lui sụt,
mất đi.
1.b/ Chánh pháp khó nghe.
Xưa kia, trong một tiền kiếp, đức Phật là một nông dân ra đời không gặp Phật để nghe pháp, không có
Tỳ kheo tăng để cầu pháp. Ngài thiết tha cần cầu chánh pháp nhưng không có ai nói pháp cho nghe. Có
một người hàng xóm bảo: “Tôi biết ba điều giới luật”. Anh nông dân nghe thế trong lòng rất vui mừng quỳ
xuống khẩn cầu. Người hàng xóm bảo: “Phật pháp vô thượng, ông chỉ muốn được nghe suông thôi
sao?” Anh nông dân hỏi: “Vậy phải làm sao?” Người hàng xóm bảo: “Mỗi lỗ chân lông châm vào một cây
kim, máu chảy ra như suối mà không có tâm hối tiếc thì mới được”. Anh nông dân vui mừng thưa: “Dẫu
giết chết thân này tôi vẫn vui vẻ làm theo, huống nữa là còn sống?”. Anh nông dân liền ra chợ mua kim
rồi tự tay châm vào thân thể mình, máu ra như suối. Người hàng xóm cảm phục ý chí của anh bèn trao
cho bài kệ:
Giữ miệng và nhiếp ý,
Thân không phạm điều ác.
Trừ được ba hành này,
Thẳng tắt thành bậc Hiền.
Anh nông dân nghe xong trong lòng rất vui mừng, thân thể liền được bình phục như cũ, trời người đều
khen ngợi. Từ đó càng thêm tinh tấn, trải qua nhiều kiếp không hề biếng nhác cho đến ngày thành Phật,
hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Châm kim đầy mình, máu ra như suối chỉ để được nghe một bài kệ. Vì trân quý chánh pháp, dốc hết tâm
quên mình cầu đạo cho nên vị nông dân này mới thiết tha, hết lòng siêng năng tu tập, trải qua thời gian
lâu dài vẫn không hề chán mỏi, mới thành chánh quả. Như vậy, muốn nghe được chánh pháp là khó hay
dễ? Ngày xưa, ra đời gặp thời không có ai nói pháp thì mới thấy chánh pháp khó được nghe. Do đó khi
nghe được thì thấy vô cùng quý giá, dốc tâm tu hành. Còn ngày nay được nghe nhiều quá, phương tiện
nghe pháp cũng dễ dàng quá cho nên sự tu hành cũng khiêm nhường, ít tiến bộ được như người xưa.
Hiện nay quý Thầy giảng nói khá nhiều, kinh luận in ấn cũng nhiều, phương tiện thông tin đại chúng hiện
đại hơn rất nhiều nên chúng ta thấy chánh pháp vẫn dễ được nghe. Tuy được nghe nhiều, nhưng lắm lúc
chúng ta cảm thấy khó hiểu, chưa thông hiểu hết nghĩa lý cho nên cũng đồng với nghĩa “khó nghe”. Có
khi mình ngồi nghe mà còn buồn ngủ, hoặc tuy có chú ý nghe mà cũng cảm thấy khó tiếp thu, khó hiểu
sâu đúng nghĩa, thành ra cũng là khó nghe. Như vậy quý vị đã thấy chánh pháp là khó nghe như thế nào
chưa?
1.c/ Tóm kết.
Trong Kinh Kim Cang cũng như các kinh điển Đại Thừa, đức Phật thường nhấn mạnh:
“Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người đối với chương cú này mà hay sanh lòng tin, cho những điều đó
là thật thì phải biết người ấy chẳng phải chỉ ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật
gieo trồng căn lành, mà đã ở nơi chỗ vô lượng, ngàn vạn đức Phật gieo trồng các căn lành”.
Ngày nay mình đã được làm thân người, đầy đủ căn trí, được nghe chánh pháp, tin được diệu lý tối
thượng, tin nơi chính mình có Phật tánh, hiểu được giáo lý thâm sâu và còn thực hành, ứng dụng tu tập
nữa, thì phải biết rằng đó là duyên lành rất lớn của mình đã huân tu từ nhiều đời chứ không phải chuyện
thường. Chúng ta phải nhận biết cho rõ thì mới biết trân quý và giữ gìn, làm cho duyên lành đó ngày
càng tăng trưởng thêm.
Tất cả chúng ta giống như một đoàn người đang cùng đi trên một chuyến tàu sanh tử mà điểm cuối là
con tàu sẽ lao xuống đáy biển. Chuyến tàu sanh tử ấy đang lao dần và tiến gần đến điểm cuối không còn
bao xa nữa. Chúng ta từ khi sanh ra trên cuộc đời này, lớn lên, mỗi ngày qua là mỗi ngày thân thể và sức
khỏe hao mòn, rồi đến già, bệnh… đó là dấu hiệu cho thấy con tàu nó gần đâm đầu xuống đáy biển. Và
tới lúc ai rồi cũng phải tạm biệt cõi đời để ra đi. Cuộc đi ấy người người đều chung chịu, dù có sợ hãi hay
lo lắng bao nhiêu cũng không thể tránh khỏi. Nếu là người biết thương mình, biết lo cho mình thì ngay từ
bây giờ phải chuẩn bị kết phao để tự cứu mình. Mỗi vị tự chọn cho mình một cái phao. Phao gì tùy ý,
miễn khi con tàu lao xuống đáy biển, chúng ta không bị chết chìm là sáng suốt.
Trong lời tựa quyển “Kiến Tánh Thành Phật” của Thiền sư Chân Nguyên, Ngài nói bài kệ “Khuyến
Đàn-na”:
Quyến thuộc giai xả khứ
Tài hóa tán hoàn tha
Đản trì tự thiện căn
Hiểm đạo sung lương thực.
Có nghĩa là:
Quyến thuộc đều bỏ đi
Tiền của trả lại người
Chỉ căn lành gìn giữ
Đường hiểm lương thực đầy.
Đi trên con đường nguy hiểm, nhưng có lương thực đầy đủ thì không còn lo lắng gì cả. Hễ mệt chỗ nào
thì ngồi lại nghỉ ngơi và ăn ở chỗ đó. Lương thực đó chính là căn lành. Biết lắng nghe chánh pháp, khéo
ứng dụng tu tập là biết gìn giữ căn lành. Căn lành tăng trưởng, đó là loại lương thực rất cần thiết giúp
cho chúng ta được an toàn khi đi trên con đường hiểm nguy sanh tử. Ngài Chân Nguyên đã thấy rõ và
nhắc thức tất cả chúng ta biết trước như vậy để chuẩn bị tư lương cho ngày ra đi.
Cũng như mỗi người chúng ta đều có một chiếc xe, sử dụng một thời gian rồi cũng sẽ bị hư hoại. Khi
chiếc xe sắp hư hoại, có người rất lo lắng, có người lại bình thường. Nếu trong quá trình sử dụng, chỉ
biết đi xe mà không biết tu sửa xe, lo sống bê tha, không biết tận dụng thời giờ để làm ra tiền của thì khi
chiếc xe gần hỏng, chúng ta phải lo lắng thôi. Nếu ai đó tranh thủ, chăm chỉ, biết tận dụng thời gian để
làm ra thật nhiều tiền, được giàu có thì khi chiếc xe cũ bị hư, quý vị có bị hụt hẫng không? Xe hư mà tiền
của có thừa thì muốn mua chiếc xe khác tốt hơn hay không cần mua nữa là quyền mình thôi, có gì phải
lo sợ! Chiếc xe là dụ cho tấm thân tứ đại mà mỗi người chúng ta đang sống đây, tiền của giành dụm
được chính là sự huân tu và phước đức của mình. Hiện nay chúng ta đang có một mái ấm gia đình, có
một cuộc sống tương đối ổn định là do phước đức mình đã tích lũy từ đời trước. Nhưng nếu trong cuộc
sống hiện tại không biết tu tạo, vun bồi mà chỉ tiêu xài cái của quá khứ thì có ngày nó cũng sẽ hết. Khi
sắp ra đi, chúng ta sẽ hoảng hốt, lo sợ. Ngược lại, nếu biết ứng dụng tu tập, sống tỉnh giác, không quan
trọng mình và mọi thứ một cách thái quá mà luôn nghĩ đến người khác, sẵn sàng làm bất cứ điều tốt gì
trong khả năng có thể làm được thì khi sắp lâm chung, giống như người giàu sang đổi xe, không có gì lo
sợ cả. Như vậy, nếu mọi thứ đã được chuẩn bị từ trước thì khi chiếc xe cũ hư hoại, chúng ta vẫn bình
thường, chủ động, an ổn, vui vẻ mà không có gì buồn lo hay sợ sệt, nếu còn sợ sệt nghĩa là chưa chuẩn
bị đủ tiền. Điều này mỗi người trong chúng ta cần phải xem xét để kiểm tra lại tài khoản của mình, xem
hằng ngày có dành dụm được đồng nào hay không? Nếu có thì tài sản của mình đã đủ chưa?
Trong Kinh Tạp A Hàm, đức Phật nói thế gian này có bốn hạng người: hạng thứ nhất đi từ tối đến tối,
hạng thứ hai đi từ tối đến sáng, hạng thứ ba đi từ sáng đến tối và hạng thứ tư đi từ sáng đến sáng.
•Hạng người đi “từ tối đến tối”: Là người sanh ra trong hoàn cảnh không được tiện nghi, sống trong
nghèo khó, không có điều kiện để học hỏi, mở mang hiểu biết, lại thiếu duyên lành, không được ai chỉ
cho biết các thiện pháp nên thân cứ làm ác, miệng cứ nói ác và ý nghĩ đều ác. Như vậy, do nghiệp đen
tối của mình từ quá khứ nên đời này sanh ra không đủ phước duyên. Hôm nay lại tiếp tục theo nghiệp
đời trước, theo lối mòn của quá khứ để gieo những nhân ác nữa. Từ nhân tối tăm nên phải lãnh thọ quả
báo tối tăm. Đang khi lãnh thọ quả báo tối tăm, lại tiếp tục tạo nhân tối tăm để rồi đi vào con đường tăm
tối ở những kiếp về sau nữa. Hạng người đó chỉ đi từ chỗ tối vào đến chỗ tối thôi, không thể sáng hơn
được.
•Hạng người thứ hai đi “từ tối đến sáng”: Cũng là người sanh ra đời không gặp nhiều may mắn, nhưng
ngoài những giờ phải ngược xuôi để lo cho cuộc sống, thời gian còn lại biết tranh thủ tạo duyên lành.
Hoặc là học hỏi Phật pháp, hoặc làm tất cả những việc tốt, cũng có thể vận dụng tu tập ngay trên các
công việc sinh hoạt hằng ngày, tâm luôn nhẹ nhàng, chan hòa, cởi mở, sẵn lòng tha thứ cho tất cả, luôn
nghĩ tốt cho người, miệng luôn nói lời hòa nhã. Cứ như thế, mỗi ngày luôn lấy các việc tốt làm niềm vui.
Được như vậy, cuộc sống hiện đời được an vui, gặp nhiều may mắn, được nhiều người cảm mến giúp
đỡ, sống trong sự quan tâm của mọi người. Về sau sanh ra đời sẽ gặp nhiều duyên lành, cuộc sống sẽ
sáng sủa hơn đời này. Như vậy, tuy hôm nay ra đời kém may mắn, ở trong chỗ tối tăm, nhưng ngày mai
mình tiến lên được chỗ sáng sủa, tốt đẹp. Đó là người sáng suốt biết vươn lên trong cuộc sống, biết lo
cho mình và người.
•Hạng người thứ ba đi “từ sáng đến tối”: Người này do kiếp trước đã tu tạo phước đức nên ngày nay
được sanh ra trong gia đình giàu có, đầy đủ tiện nghi, được học hành. Nhưng vì không nhận thức được
đầy đủ cho nên sống đời bê tha, phung phí, không biết vun bồi phước đức. Có khi dùng một bữa tiệc lên
đến hàng chục triệu, nhưng lại quên cho người ăn xin bên cạnh mình vài ngàn đồng. Lắm lúc đi du lịch từ
miền này sang nước khác, lên đến tận cung trăng mà không có thời gian sang hỏi thăm nhà bên cạnh.
Thường xuyên thích thú ngao du với rất nhiều người được cho là đẳng cấp trong xã hội mà không hề biết
đến cha mẹ hay người sống bên cạnh mình đang suy nghĩ gì. Chuyện thế giới thì bàn nói thao thao mà
gạo trong nhà còn bao nhiêu không biết… Có nhiều người khác còn có cơ may hơn, được học hỏi và tỏ
ra như mình là người thông thạo mọi việc, hiểu thông cả Phật pháp nữa. Nghe thì có nghe, hiểu thì có
hiểu, nhưng gặp việc thì những hiểu biết kia bay đi đâu biệt tăm mất dạng. Không ứng dụng được một
phần nhỏ nào vào cuộc sống, chứng nào trở lại tật ấy, sống theo một bộ mặt của sân si, độc ác, ích kỷ,
lừa dối, hư ngụy, xu nịnh, xan tham... Tuy cái quả hôm nay gặp nhiều may mắn, là sáng, nhưng không
biết giữ gìn, phát huy mà ngược lại sống trong bê tha, mờ mịt, tạo nhân tối tăm. Khi cái sáng sủa may
mắn hết, cái tăm tối mờ mịt được tạo ra quá nhiều thì kết quả sẽ đưa về đâu? Như vậy là từ chỗ sáng mà
đi vào bóng tối, thật là đáng tiếc.
•Hạng người thứ tư là đi “từ sáng đến sáng”: Sanh ra được làm thân người, được học Phật pháp, có
hiểu biết, hằng ngày còn khéo ứng dụng tu tập, luôn giữ sự trung chánh, không ỷ lại, hướng đến đời
sống nhàn tịnh, xem nhẹ cá nhân mình và quan tâm đến người khác, sống đời hy sinh, tha thứ, không cố
chấp, lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui của mình. Thấy tất cả những gì đang có được là cơ
duyên tốt để mình có đủ điều kiện làm lợi ích cho mọi người … Hạng người này hôm nay đang sáng,
ngày mai sẽ được đến chỗ sáng hơn.
Đức Phật đã nói rõ bốn hạng người cho chúng ta biết, quý vị muốn làm hạng người nào thì tùy mỗi người
tự chọn để sống. Không ai có thể sống dùm cho mình nên cũng không người nào có quyền chọn lựa
thay cho mình được.
Ngài Tuyên Luật Sư ở núi Chung Nam thương xót cho người sau nên đã nhắc thức: “Chỉ nên đời sau
hơn đời này, chớ để đời này hơn đời sau”, hay nói rõ hơn là đừng để đời sau tệ hơn đời này. Ngày hôm
nay mình không nói là sáng hay tối, chuyện hôm nay là chuyện của hôm nay, nhưng nếu biết chọn đúng
và sống cho trọn vẹn với những gì mình đã chọn thì chúng ta sẽ thấy được cái sáng sủa của mình ngày
mai. Được như vậy thì càng về sau càng được thăng tiến hơn. Còn nếu để đời sau trì trệ hơn đời này thì
thật đáng tiếc!
Ngày nay chúng ta đã được làm người, có đầy đủ trí tuệ, đầy đủ các căn lành, cuộc sống ổn định, còn
được gặp minh sư, được nghe chánh pháp, khéo ứng dụng tu tập để thoát khổ sanh tử. Nếu nói là tối ưu
thì cuộc đời này chưa người nào có được cái phước tối ưu tuyệt đối. Nhưng với ngần ấy phước đức
mình đang có, nhìn lên tuy chưa bằng ai, nhưng nhìn xuống thì cũng có người chưa được may mắn như
mình. Như vậy, hiện nay những gì đang có cũng là đáng quí lắm rồi.
Khi đã biết rõ sự có mặt của mình hôm nay là một phước duyên lớn do đã gieo trồng từ nhiều đời trước;
một phen mất đi, muôn kiếp khó gặp lại thì chúng ta sẽ rất trân quí nó để tiếp tục vun bồi và phát huy
thêm. Nhưng thử nghiệm xem, khoảng thời gian còn lại cho phép mình làm công việc đó là nhiều hay ít?
Rất ít. Đã ít rồi mà mỗi ngày qua nó lại bào mòn đi mạng sống, cướp đi khoảng thời gian còn lại của
mình thì quý vị có dám lơi lỏng hẹn nay hẹn mai để cho thời giờ nó trôi suông một cách hoang phí hay
không? Còn ít mà lại bị cướp dần đi thì chúng ta phải trân trọng, tranh thủ chứ không dám hẹn nữa rồi.
Nếu thấy rõ như vậy thì sẽ rất quý tiếc thời giờ, tranh thủ tận dụng khoảng thời gian mình còn có được để
làm những gì có ý nghĩa nhất. Được vậy thì mỗi ngày qua là một ngày sống có ý nghĩa, sau này sẽ
không hối tiếc, ăn năn cho quãng đời đã sống qua. Đó là lý do thứ nhất quý vị cần ý thức để quí tiếc thời
giờ.
2/ VÌ VÔ THƯỜNG MAU CHÓNG, KHÔNG HẸN VỚI BẤT CỨ AI.
2.a/ Vô thường già bệnh, không hẹn với ai.
Con người chúng ta hễ có sanh ra, có lớn lên thì có già và rồi sẽ chết. Cuộc vô thường không tha bất cứ
một ai. Hơn nữa cái già, cái bệnh, cái chết nó không báo cho ai biết trước hết. Muốn già là già, muốn
bệnh là bệnh, nhỡ không may ngày mai mình có chết đi nữa thì hôm nay nó cũng không thèm báo trước
cho mình biết gì cả. Chính vì không báo trước cho nên nó rất nguy hiểm. Bởi vậy không ai dám chắc
khoảng thời gian còn lại của mình là dài được.
Trong Kinh A Hàm, đức Phật dạy có bốn việc không báo trước cho người hay biết: Một là đầu bạc, hai là
già, ba là bệnh và bốn là chết. Bốn việc này tránh cũng không được mà bỏ cũng không xong. Mới thấy
mình còn trẻ đây, lo làm ăn, lụi hụi thời gian sau soi gương nhìn lại thì tóc đã bạc hồi nào không hay biết.
Vậy thì vô thường có hẹn với chúng ta hồi nào đâu? Nếu có hẹn thì mình phải được nó báo cho biết
trước, đằng này đợi đến khi soi gương kiểm tra lại mới giựt mình thấy tóc bạc quá nhiều. Như vậy là nó
không hẹn với ai cả. Bệnh cũng vậy, hôm qua mới khỏe mạnh đó, sáng nay thức dậy đột nhiên nghe
trong người chóng mặt, nhức đầu, không được khỏe thì mới biết là bị bệnh, không được báo trước một
tiếng nào hết. Nếu bệnh thông thường thì không nói, thời đại này có nhiều loại bệnh rất nguy hiểm và đến
một cách bất ngờ không ai lường trước được. Cho đến cái chết nó cũng xảy đến rất đột ngột, bất
thường.
Như vậy bốn việc này không ai tránh được và nó cũng không hẹn cho ai biết trước. Nó có thể đến với bất
cứ ai trong bất cứ lúc nào mà không ai có thể đoán biết được cho nên bản chất của nó rất nguy hiểm.
Nghiệm cho kỹ mới thấy rõ bản chất của sự vô thường là nguy hiểm và mau chóng, thời gian còn lại cho
chúng ta sống được và làm những gì cần làm không còn nhiều nữa. Tự thân mình cảm nhận một cách
sâu sắc và thấm thía như vậy thì mới thấy quý tiếc thời giờ, thấy rằng mỗi ngày qua là một sự mất mát
cho nên không dám buông lung để thời gian trôi qua một cách vô ích.
2.b/ Con người thì hay hẹn.
Tuy sự vô thường nhanh chóng, không hẹn với bất cứ ai, nhưng con người chúng ta thì thường hay hẹn.
Hôm nay hơi mỏi mệt một chút thì hẹn ngày mai tu. Bữa nay tính lên chùa nhưng bận quá nên hẹn tháng
sau lên. Nó không hẹn với mình, nó không dừng lại và cũng không cho mình biết trước, nhưng mình lại
hẹn với nó thì chúng ta đã bị lầm, bị thất trận rồi. Nếu cứ tiếp tục hẹn như thế thì chắc chắn sẽ mãi mãi
chuốc lấy thất bại, chuốc lấy sự mất mát lớn lao mà không mang lại được lợi ích gì cho một ai cả.
Trong Kinh Pháp Cú Thí Dụ, phẩm Ngu Ám có ghi lại câu chuyện:
Khi Phật trú tại nước Xá Vệ, trong thành có vị Bà la môn gần tám mươi tuổi, giàu có vô kể. Nhưng ông là
người khó độ, không tin đạo đức, không biết vô thường và ham thích cất nhà to lớn sang trọng. Ông ra
sức cất nhà trên, nhà dưới, đài hóng mát, nhà sưởi ấm, dãy bên đông, dãy bên tây… tất cả mấy mươi
gian, duy chỉ còn mái hiên che nắng căn nhà sau là chưa xong. Vị Bà la môn để hết tâm trí lo chỉ huy mọi
người làm việc. Đức Phật dùng Phật nhãn thấy mạng ông này sống không hết ngày hôm đó, thế mà ông
không tự biết, cứ mãi miết lo tính nhọc nhằn đến nỗi thân thể tiều tụy, thật đáng thương. Đức Phật cùng
Ngài A Nan đi đến nhà ông thăm hỏi:
- Ông có mệt nhọc lắm không? Nhà cửa xây dựng nhiều như vậy dùng để làm gì?
Ông lão đáp:
- Nhà trước dùng để tiếp khách, nhà sau dùng để ở, hai dãy bên đông bên tây dành cho dâu con, tôi tớ
và cất chứa của cải. Mùa hạ thì lên đài hóng mát, mùa đông lại vào phòng sưởi ấm.
Chút xíu nữa là đến lúc phải chết rồi mà còn ở đó nói đủ thứ chuyện. Nhưng tại sao đức Phật không nói
thẳng cho ông biết mà phải hỏi một câu nhẹ nhàng để đặt vấn đề như vậy? Quý vị thử đến nhà một
người chưa sẵn sàng nghe Phật pháp, người ta đang hăng hái để cất nhà như vậy mà bước vào nói
“Thôi, vô thường chết tới nơi rồi, cất nhà làm gì cho uổng công” thì họ có nổi trận xung thiên mắng cho
mình một trận không? Cái mê lầm sâu dầy của chúng sanh là như vậy. Chưa đủ nhân duyên, họ không
nghe được sự thật. Vì thế đức Phật mới hỏi tế nhị trước để khơi mở cho ông nhận biết, nhưng ông đang
còn hăng hái cất nhà quá nên không nhận ra đức Phật muốn nói gì. Nếu có chúng ta ở đó, thấy ông lão
gần chết rồi mà không biết, còn hăng hái sắp xếp mọi việc một cách say sưa thì vừa thương cảm cho
ông, vừa nín cười không được. Thương cảm và cười cho ông lão ấy mà có nhớ mắc cười và thương
cho mình không? Mình còn sống được bao lâu nữa, có ai biết trước không? Hiện tại có vì hăng hái lo đủ
thứ một cách thái quá để phải đánh mất cả chính mình giống như ông lão kia không? Có lẽ không lo
bằng ông lão đó, nhưng cũng chỉ thua ông ta chút chút thôi!
Đức Phật nói:
- Đã lâu nghe danh đức của ông mà nay mới có dịp trò chuyện. Tôi có một bài kệ quan trọng có ích lợi
cho cả kẻ còn và người mất muốn đem tặng ông. Không biết ông có vui lòng nghỉ tay ngồi nói chuyện
một lát không?
Ông lão đáp:
- Hôm nay bận lắm, không thể ngồi trò chuyện, xin hẹn hôm khác đến sẽ thong thả luận bàn. Còn bài kệ
quan trọng gì đó xin nói ngay đi.
Một lát nữa là chết rồi mà còn hẹn hôm khác! Lúc bấy giờ đức Thế tôn nói ba bài kệ, quý Thầy dẫn điển
hình một bài cho quý vị cùng nghe. Ngài nói:
Có con, có tài sản
Người ngu phải rộn ràng.
Ta còn không thật có
Lo gì của và con.
“Đây là con ta, đây là tài sản của ta, kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế mà họ không biết rằng, chính ta
còn không thật có huống nữa là con ta hay tài sản của ta?” Thử chiêm nghiệm lại, con ta, tài sản của ta
mang lại hạnh phúc cho ta, từ ta mà định hình, từ ta mà có ra. Nhưng xét lại, chính ta thật có hay không?
Ai rồi cũng già, cũng đang bệnh và đang chết dần chết mòn từng phút từng giây thì thân tâm sanh diệt
không bền chắc này có gì thật được! Chính ta đã không thật có thì dựa vào đâu để nói là con ta hay là tài
sản của ta! Cụ thể nhất là lát nữa đây ông lão sẽ chết thì cái ta tạm tồn tại đó không có gì bền chắc lâu
dài được. Vậy mà lại còn lăng xăng đi lo cho con ta, cái nhà của ta, tài sản của ta nữa. Khi chết rồi thì
bao nhiêu thứ gọi là “của ta” đó đều trở nên vô nghĩa, nhưng phần đông chúng ta thường chạy theo cái
vô nghĩa đó mà quên đi, không biết lo cho cái gốc chính nơi mình. Đó là điều thật đáng thương cho tất
cả chúng ta.
Vị Bà-la-môn này nghe Phật nói kệ rồi mà vẫn chưa tỉnh ngộ:
- Bài kệ này hay thật. Nhưng hôm nay tôi rất bận, xin bữa khác hãy đến bàn luận.
Đức Phật chỉ còn biết thương xót và ra đi. Ông lão tiếp tục đích thân chỉ huy mọi người gác đòn tay. Bất
ngờ cây đòn tay rơi xuống trúng vỡ đầu và chết. Con cháu than khóc động cả xóm làng xung quanh. Đức
Phật đi chưa bao xa liền xảy ra biến cố này. Khi đến đầu làng, Ngài gặp vài mươi người Phạm Chí hỏi
Phật:
- Ngài từ đâu lại?
Đức Phật đáp:
- Ta vừa đến nhà ông lão mới chết để thuyết pháp cho ông nghe. Nhưng ông ta không tin lời Phật, không
biết lẽ vô thường, giờ đây bỗng chốc đã sang đời khác.
Rồi đức Phật nói lại bài kệ trước cho các Phạm Chí này nghe, ai nấy đều hoan hỷ chứng được Pháp
nhãn.
Cùng một bài kệ đó, nhưng tại sao ông Bà-la-môn không chịu nghe mà các Phạm Chí này mới nghe qua
lại chứng được con mắt pháp thanh tịnh nhanh như vậy? Bởi vì khi đức Phật nói kệ, ông Bà la môn còn
lo để tâm vào việc cất nhà, không chí thành nghe nên không thấm được. Còn các vị Phạm chí này nghe
nói ông lão kia không tin bài kệ, mới đó đã chết rồi thì giựt mình, cái chết đến với ông lão ấy hết sức đột
ngột thì nó cũng sẽ đến với mình bất cứ lúc nào. Khi thấm sâu như vậy, trong lòng không thấy có gì quan
trọng để vướng bận, tâm về một mối, lòng hết sức chí thành nên vừa nghe đức Phật nói qua bài kệ thì
các vị Phạm Chí liền chứng được Pháp nhãn thanh tịnh. Tâm còn phân tán, loạn động, dính mắc mọi thứ
bên ngoài; lòng không chí thành, tha thiết thì dù có gặp Phật ra đời cũng không cứu được!
Nghiệm kỹ lại mới thấy vô thường rất nhanh chóng, nó đến một cách bất ngờ, không hẹn với bất cứ ai. Vì
thế chúng ta thường bị chới với, hoảng sợ trước vô thường bởi chưa kịp chuẩn bị gì cho mình một cách
đúng nghĩa. Ông lão trong câu chuyện trên đã gần kề với cái chết rồi mà vẫn còn lo đủ thứ bên ngoài. Và
cuối cùng ông đã lo được gì, hay chỉ lo cho một cái rỗng tuếch rồi một mình phải lủi thủi ra đi, gánh chịu
một đống nghiệp mà mình đã gây tạo? Chẳng khác nào một người đang ngủ mê nói mớ, ở trong mộng
mà lăng xăng đặt bày lắm chuyện, nào là đánh số đề, nào là mua vé số được trúng giải đặc biệt… Khi
mở mắt ra, có tìm lại được gì không? Vậy mà đã có lúc ta mãi miết trong mộng quá say để rồi khi
choàng thức giấc, ôm gối mộng mà lòng cứ vẫn bàng hoàng chưa chịu tỉnh! Người xưa nói:
Bách niên thế sự tam canh mộng,
Vạn lý càn khôn nhất cục kỳ.
Việc thế sự trăm năm chỉ là ba canh mộng, đất trời muôn dặm cũng chỉ một cuộc cờ. Giấc mộng của
một đêm là giấc mộng ngắn, đời người là một giấc mộng dài. Dài hay ngắn thì mộng vẫn là mộng. Mình
đang còn mộng thì việc trong mộng có gì thật đâu. Cái không thật mà dốc sức lo cho nó một cách thái
quá, để rồi dòng thời gian cứ thế cuốn trôi đi. Cho đến một ngày hay ra thì mọi thứ đã muộn màng, hụt
hẫng, hoảng hốt, chơi vơi, không nơi nương tựa, lúc này mới tủi thương mình và hối tiếc cho khoảng thời
gian qua đã luống phí trôi suông vô ích. Thấm sâu như vậy thì chúng ta mới sực tỉnh, quý tiếc thời giờ
còn lại và sống cho có ý nghĩa.
Ngài Hàn Sơn có nói:
Nhân sanh bất mãn bách
Thường hoài thiên cổ ưu.
Ngài nói đời người sống không đầy một trăm tuổi nhưng thường lo tới chuyện của ngàn năm. Có ai dám
cam đoan rằng mình sẽ sống được một trăm tuổi? Chưa biết ngày mai mình sẽ thế nào, nhưng hôm nay
lại lo đủ thứ. Hết lo cho con rồi đến lo cho cháu. Lăng xăng lộn xộn, chạy đầu này kiếm đủ tiền cho con
cháu tiêu xài. Vội vội vàng vàng, tìm đầu kia cho có tài sản để lại, một mai mình chết con cháu nó còn có
cái để trang trải cho cuộc sống. Lo lắng như vậy là người có trách nhiệm tốt, nhưng lo trong cái lăng
xăng lộn xộn, vội vội vàng vàng, đánh mất sự tỉnh táo chính mình thì có khi lại làm cho con cháu không
yên tâm, không bằng lòng và còn lo lắng trở ngược lại cho mình nữa. Như vậy là lo qua lo lại trong vòng
lẩn quẩn, không thoát ra được sự ràng buộc khổ đau. Mới thấy, sống trong tán tâm, lo trong loạn động thì
không mang lại lợi ích đích thực cho mình và người, là cái lo không đúng nghĩa.
2.c/ Vô thường mau chóng.
Ví dụ khi đang khỏe mạnh, nếu có ai đó khuyên tu hay bảo làm việc tốt gì đó thì chúng ta thường chần
chừ, cứ sống tà tà và hẹn từ từ rồi hãy làm, không có gì vội. Tình cờ đi khám sức khỏe, bác sĩ báo bị
ung thư, thời gian sống không còn được lâu nữa. Khi thấy cái chết đã cận kề, chờ chực sẵn một bên thì
có còn thời giờ để hẹn nữa không? Nghe báo tử rồi thì hễ thấy cái gì cần làm là tranh thủ làm ngay,
không cần ai đôn đốc cả. Nếu có hiểu biết Phật pháp thì chúng ta sẽ tranh thủ thu xếp, gói gọn mọi việc
để cắm đầu cắm cổ lo tu tập, không còn thời gian để hẹn nữa. Trong cuộc sống, nếu chúng ta thấy rõ vô
thường mau chóng thì lòng xem nhẹ mọi thứ bên ngoài, tranh thủ thu xếp mọi việc và khéo ứng dụng tu
tỉnh trong mọi hoàn cảnh thì tất cả mọi việc đều được chu đáo, mỗi một ngày qua là một ngày sống vui
và cuộc sống sẽ trở nên sinh động, đầy ý nghĩa.
Nghiệm lại trên thực tế, nhất là những người đã có tuổi, tóc đã bạc thì sẽ thấy cuộc sống của mình từ
nhỏ cho đến lớn như là mới thoáng chốc đây thôi. Nếu đem khoảng thời gian còn lại được sống so sánh
với khoảng thời gian quá khứ mình đã sống qua thì sẽ thấy khoảng thời gian còn lại để sống không còn
nhiều nữa. Kỷ niệm thơ bé ngày nào, bây giờ ngồi nhớ lại như mới xảy ra hôm qua. Và giờ đây tuổi đã
lớn, tóc đã bạc, mới thấy cuộc sống sao mà ngắn ngủi vô cùng. Khi thời gian trôi qua và cuốn phăng mọi
thứ đi rồi, chúng ta có muốn quay trở lại cũng không được nữa. Ngồi đó mà hối tiếc có ích lợi gì! Ngay
từ bây giờ, sao không chịu ngồi lặng lại, tỉnh táo mà xét cho tường tận để thấy rõ vô thường nhanh
chóng, sống nay chết mai bất thường, nó rình rập chực sẵn bên mình, sẵn sàng cướp đi mạng sống của
mình bất cứ lúc nào, để từ đó thấy rằng một ngày còn sống là một ngày đáng trân quí và phải tận dụng
để sống cho xứng đáng, để không hối tiếc về sau?
(Còn tiếp)