Hình minh hoạ: quân đội Trung Quốc đi tuần ở đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa hôm 29/1/2016
AP
Vào nửa đêm ngày 26 tháng 8, trang Facebook của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đăng tải nội dung được cho là lập trường của cơ quan ngoại giao này về các phát biểu của Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Kamala Harris, trong chuyến thăm vừa diễn ra của bà đến Việt Nam.
Phía sứ quán Trung Quốc cho rằng bà Kamala Harris đã “công kích” nước họ, và cáo buộc mục đích chuyến thăm của bà Harris tới Việt Nam là “nhằm thách thức và gây sức ép với Trung Quốc” và “chia rẽ Trung Quốc với các nước xung quanh”.
Điều đáng chú ý trong tuyên bố này là phía sứ quán Trung Quốc khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, hay Nam Hải theo cách gọi của nước này, và gọi hành vi chiếm đóng các thực thể ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là “quyền lợi hợp pháp”.
Sứ quán Trung Quốc cũng đổ cho Mỹ là “kẻ thúc đẩy quân sự hoá” tại Biển Đông, trong khi trên thực tế chính Trung Quốc mới là nước đã bồi lấp các đá thành đảo nhân tạo ở Trường Sa, và xây dựng các căn cứ quân sự ở cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nơi họ chiếm đóng.
Trong bài đăng của mình, sứ quán Trung Quốc cũng nhắc lại những “tội ác chiến tranh” của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, và quy kết việc Phó Tổng thống Mỹ đến Việt Nam trong thời điểm hỗn loạn ở Afghanistan là để “đánh thức ký ức” về sự kiện Sài Gòn sụp đổ.
Ở cuối bài đăng, sứ quán Trung Quốc “khuyến cáo” Hoa Kỳ không được coi nhẹ ý chí và năng lực của nước này trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Và khẳng định các nước trong khu vực sẽ không nghe theo Mỹ để chống lại Trung Quốc.
Bài đăng trên của Đại sứ quán Trung Quốc đã thu hút lượng lớn tương tác của người dùng mạng xã hội ở Việt Nam. Trong số hàng ngàn bình luận, hầu hết đều bày tỏ sự phản đối, và chế giễu lập luận của phía Trung Quốc. Trong đó, có người còn thách thức sứ quán Trung Quốc làm một cuộc thăm dò dư luận để xem người Việt tin Hoa Kỳ hay Trung Quốc hơn.
Việc các cơ quan ngoại giao của Trung Quốc ở Việt Nam có những phát ngôn đả kích Hoa Kỳ không phải chuyện mới.
Trong cuộc thảo luận về nỗ lực tạo ảnh hưởng lên truyền thông Việt Nam của Trung Quốc diễn ra hôm 23 tháng 7, ông Lương Nguyễn An Điền từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á phát biểu rằng hai cơ quan ngoại giao của Trung Quốc ở Việt Nam là Đại sứ quán ở Hà Nội và Lãnh sự quán ở TP. HCM đều rất tích cực “tuyên truyền các luận điệu chống Mỹ".
Ở tầm quốc tế, các cơ quan ngoại giao của Trung Quốc cũng rất tích cực phân tán các nội dung đả kích Hoa Kỳ, các chuyên gia quan hệ quốc tế gọi đây là chính sách “ngoại giao chiến lang”.
Trong chuyến thăm Việt Nam từ ngày 24 đến ngày 26 tháng Tám, Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Kamala Harris, đã nhiều lần lặp lại quan điểm của phía Mỹ về các hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông và gọi đó là sự “bắt nạt”. Bà Kamala Harris cũng kêu gọi Việt Nam cùng với Hoa Kỳ gây sức ép đối với Trung Quốc để đảm bảo quyền tự do hàng hải ở khu vực Biển Đông.
VIDEO Theo RFA
Hoài Nam says: Chính sách 4 không của Việt Nam càng làm cho Trung Cộng mạnh mẽ bảo vệ lý lẽ chiếm đóng các hải đảo của Việt Nam. Không biết đến bao giờ VN mới đủ can đảm để tự tháo cái thòng lọng trên cổ.
Anonymous says: Trung Cộng nắn gân Đảng ta.
Cách trả lời Trung Cộng hợp lý nhất - là kiện chúng nó ra Tòa án quốc tế.
Duy Hữu, USA says: Ngụy sách 4 Không, 4 Ngu, 4 Hèn, 4 Láo của Đảng giặc cờ đỏ Búa Liềm Việt Cộng...
Không liên kết với nước này để đánh nước kia,
Dù nước Tàu kia đang đánh, đang chiếm nước tao.
Còn Tàu, còn Tiền, còn Đảng, còn tao.
Tao còn bán đất, tao còn bán nước, tao còn bán dân.
Tao còn bán tao, tao bán Đảng tao, cho Tàu, cho tiện, cho xong.
Nguyễn Nhơn says: HOÀNG SA – TRƯỜNG SA
Chủ quyền bất khả tranh cải của Việt Nam
SỰ THỰC VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
Như trên đã trình bày, Tàu khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 đã cho rằng Tây Sa là vô chủ. Năm 1898, chính quyền Quảng Châu, Tàu đã trả lời các khiếu nại của Công sứ Anh ở Bắc Kinh về việc những người Tàu ở Hải Nam cướp phá các tàu Bellona của Đức (bị đắm năm 1895) và tàu Humeji- Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) do Công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm, rằng: “quần đảo Tây Sa là những ḥòn đảo bị bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách nhiệm về cảnh sát của chúng”. [Monique Chemillier - Gendreau, sđd, p.158].
Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam, Trung Hoa hồi đó và Tàu bây giờ lại luôn luôn nói rằng Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa) đã thuộc về Tàu từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thì nói từ đời Minh, khi thì nói từ đời Tống. Sự thực thế nào?
Sự thực là quần đảo Hoàng Sa không hề là vô chủ như luận điểm của chính quyền Tàu năm 1909: Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời, từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930, mà đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư”, “Toản tập An Nam lộ” trong sách “Thiên hạ bản đồ”, trong Hồng Đức bản đồ năm 1686 và Phủ biên tạp lục năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong “Thiên Nam tứ Chí lộ đồ thư” hay “Toản tập An Nam lộ”, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở bãi Cát Vàng. Còn tư liệu trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải.
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- “Dư địa chí” trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt địa dư chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam thực lục phần Tiền biên, Quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); Đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); Đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí giá, là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc… Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản…
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai Suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật, người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Đại Nam thực lục chính biênĐệ nhị kỷ, Quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Châu bản tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc“.
Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗi bài khắc những chữ: “Minh Mạng thập thất niên Bính Thân thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳng tư (tờ 25b)”.
(Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
Vì sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ(1851), Quyển 207, tờ 25b-26a và Quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá, cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…
Về những tư liệu của Tàu minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
- Hải ngoại kỷ sựcủa Thích Đại Sán (người Tàu) năm 1696. Trong Quyển 3 của Hải ngoại kỷ sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Tàu do chính người Tàu vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Tàu.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Tàu từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Tàu do người Tàu vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Tàu.
Sau khi Tàu dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1/1974, nhiều đoàn khảo cổ Tàu đến các đảo thuộc quần đảo này và “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Tàu, trái lại họ lại phát hiện ở mặt Bắc ngôi miếu “Hoàng Sa tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée) bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
- Le Mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769 – 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.
- Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes của Giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
- An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh – Annam, ghi rõ «Paracels seu Cát Vàng» với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Tàu cho là ven bờ biển. («Seu» tiếng la tinh có nghĩa «hay là», Cát Vàng: chữ nôm, Hoàng Sa: chữ Hán).
- The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đã đăng bài của Giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels.
- The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels.
Về sau Trung Hoa đưa ra những bằng chứng ngụy tạo nói ngược lại luận điệu ban đầu xem là đất vô chủ (1909) mà cho rằng Tây Sa đã thuộc Tàu từ lâu. Ngay tên Tây Sa và Nam Sa cũng mới đặt từ sau năm 1907, và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung Sa, khi chỉ Nam Sa ở vị trí hiện nay (Spratleys).
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Khi bị Trung Hoa xâm phạm, vào thời điểm ban đầu, với tư cách là người đến xâm chiếm thuộc địa, người Pháp chưa hiểu hết lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam nên có lúc đã không lên tiếng bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, không lâu sau đó, chính quyền thực dân Pháp đã có đủ thông tin và thay đổi quan điểm, bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự thực là bất cứ chính quyền nào, kể cả chính quyền thuộc địa chịu trách nhiệm về quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Nguyên nhân chủ yếu khiến cho Tàu tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhất là từ thời chiến tranh lạnh và sau này và tham vọng bành trướng mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực.
Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”.
Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công. Đối với các nước Asean, trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối, đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Tàu núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quý giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Tàu, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Tàu”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Tàu.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 cũng như Tàu dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời, không có giá trị pháp lý. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mã thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại, hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lãnh thổ chiếm giữ bằng vũ lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử, nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tại Hoàng Sa và Trường Sa từ lúc chưa có ai tranh chấp, và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên hiệp quốc sau đó, cùng với Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Tàu phải thấy rõ sự thật lịch sử trên!
Việt Nam phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho cả thế giới được biết rằng vụ Tàu dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 là trái phép hoàn toàn, trái với Hiến chương và các nghị quyết của Liên hiệp quốc. Không thể để cho Tàu coi vụ chiếm đóng Hoàng Sa như đã xong. Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hại cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là phải quảng bá rộng rãi lịch sử về chủ quyền của nhà nước Việt Nam đới với Hoàng Sa và Trường Sa, và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
Cuộc đấu tranh đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như sự bảo toàn quần đảo Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thành công cũng như Việt Nam đã từng giành được độc lập tự chủ dù bị phong kiến phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm.
Hàn Nguyên Nguyễn Nhã
* Tiến sĩ Sử học, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”. Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến, đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công.
T.S. Nguyễn Nhã
Lão nông dân says: Nó ngồi ngay ba đình,ị vào mồm cả đám bộ chính trị rồi hỏi hảo lớ hảo lớ???thăng nào cũng trợn mắt gật đầu:dách lầu hảo hảo…!!!
Nguyễn Nhơn says: TRƯỜNG CA HOÀNG SA TRƯỜNG SA
Cột mốc Chủ-Quyền do Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa đặt trên Trường-Sa ngày 22 tháng 8 năm 1956
Nhân ngày kỷ niệm trận hải chiến Hoàng Sa lừng danh trong Quân sử QLVNCH, kính chuyển Quý Hội hình ảnh cột mốc Chủ quyền Quần đảo Trường Sa của VNCH.
Trong bài Trường ca Hoàng Sa - Trường Sa dưới đây, tôi có nhắc tới 3 Nghị Định Chánh phủ VNCH xác nhận chủ quyền trên hai Quần đào HS-TS.
Trong đợt cải tổ Hành Chánh năm 1956, Thủ Tướng Chánh phủ Ngô Đình Diệm ban hành Nghị định cải danh Tỉnh Bà Rịa thành Tỉnh Phước Tuy và đặt Quần đảo TRƯỜNG SA thuộc quyền quản hạt của Tỉnh nầy.
Sau đây là chứng tích: Cột mốc CHỦ QUYỀN do Hải quân VNCH đặt trên Trường Sa ngày 22 tháng 8 năm 1956.
Hàng chữ trên bia đề là:
Việt Nam Cộng Hoà
Quần Đảo Trường Sa
Đảo Song Tử Tây
Vĩ Tuyến 11 độ 25 phút 5 giây Bắc
Kinh Tuyến 111 độ 19 phút 6 giây Đông
Quần Đảo Trường Sa trực thuộc Tỉnh Phước Tuy
Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22/08/1956
dưới sự hướng dẫn của Hải Quân Việt Nam
Hình chụp các chiến sĩ Hải kích Việt Nam Cộng Hòa cạnh một tấm bia chủ quyền khác trên đảo Trường Sa.
* HÃY DẠY CHO CON CHÁU CHÚNG TA BIẾT : HOÀNG SA & TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM
Giá trị nhất là bốn chử VIỆT NAM CỘNG HÒA ở trên bia chủ quyền, cần phải nhanh tay bảo vệ di tích nếu không chắc chắn sẽ biến mất giống như những cột mốc ở Ải Nam Quan.
( Hình và lời ghi chú của Đỗ Hữu Phương )
TRƯỜNG CA HOÀNG SA TRƯỜNG SA
Tôi, cán bộ Hành chánh Quốc gia
Được huấn luyện và phục vụ
Suốt hai nền Cộng Hòa
Cho đến ngày mất nước đi tù VC
Là người làm việc Hành chánh
Biết rất rõ có ba Sắc Lịnh, Nghị Định
Do Chánh phủ VNCH ban hành
Qui định địa giới hành chánh
HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
Là Lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa
Hoàng Sa nằm trên vỉ tuyến
Ngang với Tỉnh Quảng Nam
Nên thuộc địa phận Tỉnh nầy
Chịu trách nhiệm quản trị
Trường Sa cùng vỉ tuyến Tỉnh Bà Rịa
Địa giới và quản trị HC thuộc Tỉnh nầy
Sau cải tổ Hành chánh
Trường Sa là Đặc Khu HC thuộc Tỉnh Gia Định
Trên đây là thể chế Hành chánh
Sau đây việc thi hành
Hoàng Sa do một Đại Đội
Địa Phương Quân trấn giữ
Từng định kỳ viên chức Hành chánh
Thuộc hai Tỉnh kể trên
Vẫn tháp tùng tàu HQ vận lương
Ra thị sát việc Hành chánh và dân tình
HAI ĐẶC KHU HÀNH CHÁNH HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
Có người bạn Hải quân kể cho nghe
Cảnh trí tuyệt đẹp trên hai Hải Đảo
Nhiều giống chim chóc lạ và đẹp
Bay lượn thong dong trên bầu trời Tự Do
Riêng tại Đảo lớn Hoàng Sa
Bãi phân chim rộng lớn và thật dày
Có thể lập nhà máy biến chế Phốt phát
Dân sở tại được thêm chút huê lợi
Việc Hành chánh, việc dân mới ổn định
Khinh tốc đỉnh Trung cộng đã ào tới
Ngày ngày biểu dương uy hiếp
Đại đội Địa Phương quân trú phòng
Bốn chiến hạm VNCH được phái tới
Tăng cường bảo vệ Hoàng Sa
Khinh tốc đỉnh Tàu cộng tối tân, hỏa lực mạnh
Đánh chìm ngay một chiến hạm ta
Hải quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà vị quốc vong thân
Binh sĩ thuộc quyền lớp tử vong, lớp bị bắt sống
Chánh phủ VNCH trong cơn bối rối
Liền phái ngay Ngoại trưởng Vương Văn Bắc
Sang Hoa Thạnh Đốn cầu viện
Chỉ nhủn nhặn cầu xin việc nhỏ xíu
Cấp cho ngay một phi đội phi cơ Phantom
Để Không Quân VN triệt hạ
Đám khinh tốc đỉnh phỉ Tàu
Câu phúc đáp thật là chua chát
Vũ khí, quân cụ được cấp cho đó
Là để chống Cộng sản Bắc Việt
Chớ đâu phải để chọc ghẹo NƯỚC LỚN TÀU
Thôi mau về tự lo liệu đi
Những ngày tù đày trên rừng núi Hoàng Liên
Những khi phẩn chí Hải quân Trung tá Phát (?)
Dùng tiếng Đức ngùng ngoằn kể
Đánh chác cái mẹ gì khi họ a tòng xếp đặt cả rồi
Đám Hải quân tụi tui bị bắt sống
Đem về ngay Thành Phố Thượng Hải
Cho tạm trú ngay Trường học sở tại
Sáng sớm phát mỗi đứa hai trăm NDT
Cho tự do ra ngoài phố cơm nước, tiêu xài
Chiều về, lục túi, tiền còn dư, lấy lại
Sáng mai lại phát hai trăm, xài tiếp
Cứ thong dong như vậy cho đến ngày
C130 Không lực Hoa Kỳ
Đáp xuống Thành Phố Thượng Hải
Rước “Quí vị Tù binh” về xứ
Chúc quí vị thượng lộ bình an
Sướng vậy, sao quan năm còn sạc tiếng Đức?
Là sĩ quan QLVNCH, biết rõ nước sắp mất rồi
Nhưng vì TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM
Biết đánh chác cái mẹ gì nhưng vẫn đánh, thế thôi
Cậu tôi là chiến sĩ Liên Tôn Phục Quốc
Ngày nay không còn nữa
Thưở sanh tiền thường dặn cháu:
“Mình là con dân đất nước,
Thấy “Việc Nghĩa” hết lòng làm
Nên hư, thành bại trời đất biết”
Ngày nay trước vận nước ngặt nghèo
Bên trong lũ quan lại VC hư hèn, nhu nhược
Bên ngoài Tàu phù lẫy lừng uy hiếp
Toàn dân khốn khổ biết tính lẽ nào?
Sách có chữ rằng:
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên
Nhưng lại cũng có câu rằng:
Tận nhân lực, tri thiên mạng
Nếu toàn dân đồng lòng, vùng lên lật đổ ách quỉ Cộng
Thành lập Chánh Phủ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA
Trên dưới cùng một lòng theo truyền thống DIÊN HỒNG
Ắt có câu trả lời khẳng định: Hoàng Sa Trường Sa là của ai?
HAI MÃNH VIỆT NAM TRÔI GIẠT NỔI CHÌM TRÊN BIỂN ĐÔNG LÀ
LÃNH THỔ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Nguyễn-Nhơn
5 tháng 6 năm 2011
Nhân Dân Asean
Nhân Dân Asean says: Các quan chức Trung quốc toàn bọn thiếu ăn học, nói bậy nói bạ, nói bừa không cần đúng sai. Bọn Trung quốc ỉ lại nước lớn không sợ bất cứ nước nào rồi chúng cứ ngang nhiên ăn nói kiểu gì cũng được, làm bất cứ gì cũng được. Lãnh thổ của nước khác, chúng xâm chiếm rồi tuyên bố chủ quyền. Bọn Trung quốc cứ lúc nào cũng hù dọa Mỹ "đừng thử thách í chỉ bảo vệ chủ quyền của Trung quốc". "í chí" của Trung quốc là gì? Bọn Tàu luôn sợ chết, không biết chút ít gì trận mạc mà cứ lức nào cũng nêu "í chí". Bọn nó đi xâm chiếm nước khác rồi nói 'i chí". trung quốc nên học hỏi thêm rất nhiều nữa để trở thành nước có ăn học và xứng đáng sống chung với cộng đồng quốc tế còn không sẽ bị cô lập trầm trọng, không ai chới với Trung quốc đừng hy vọng.
Annymous says: CS Trung Quốc và CS Hanoi có bản chất y trang với nhau đều là nhóm lừa đảo, nói láo, bóc lột dân và cướp giật tài sản của dân.
Do đó, bọn đó là đồng bọn như nhau. Cái tài dối trá không ai kém hơn ai.
Chỉ tội nghiệp cho nhân dân sống trong nước CS bị trà đạp, bóc lột mấy chục năm nay.
Bọn Mafia cờ đỏ hút máu người nên bị trời tru đất diệt.
Anonymous says: Không ngạc nhiên lắm khi mà ý đô bóp méo sự thật,đổi trắng thay đen, của trung quốc hầu chiếm cả biển đông,và quần đảo HOÀNG SA,TRƯỜNG SA của VIỆT NAM.
Nhưng điều quan trọng là khi nào, VIỆT NAM buộc trung quốc trả lại 2 QUẦN DẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA, mà trung quốc đang cưởng chiếm bất hợp pháp.
Sửa bởi người viết 29/08/2021 lúc 11:06:28(UTC)
| Lý do: Chưa rõ