logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
co  
#1 Đã gửi : 19/08/2013 lúc 01:29:53(UTC)
co

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 30-07-2013(UTC)
Bài viết: 1,345

Hiện trạng TỨ ĐỔ TƯỜNG
Bài của học giả Anh Tuấn

Dẫn nhập
Mỗi chúng ta khi nói đến  ba chữ tứ đổ tường thì ai cũng  đều có một nhận xét không mấy thiện cảm đối với tệ nạn  xã hội này vì nó đã làm hư hỏng biết bao con người, làm tan nát biết bao gia đình và xã hội, thậm chí làm suy nhược hủy hoại cả một thế hệ, một quốc gia nữa.  Hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ cùng quí vị những hiểu biết xoay quanh tệ nạn này trên bình diện tâm sinh lý của con người cũng như trên bình diện văn hóa xã hội như thế nào.
Vấn đề là tại sao người ta ai cũng biết tứ đổ tường  là tệ hại nhưng nó lại luôn luôn có mặt trong cuộc sống không thể nào bài trừ được.  Dầu bao nhiêu biện pháp, luật pháp được đặt ra  nhưng vẫn không có kết quả, thậm chí các tôn giáo cũng tham gia cấm đoán nữa, nhưng cấm thì vẫn cấm mà phạm thì vẫn phạm là nghĩa tại sao?  Chúng ta không tìm được nguyên nhân cuối cùng hay là tìm hiểu  được nhưng khó nói, đành làm ngơ, bỏ ngỏ, bởi lẽ thú đam mê của con người nó nằm trong phạm trù bản chất sinh học, mà bản chất thì khó lòng mà thay đổi, cho nên con người là nạn nhân của chính mình.  Nghiêm chỉnh mà nói, những hệ luỵ do Tứ Đổ Tường mang lại là một  thực trạng không chối cãi, nhưng trong một tư duy hạn hẹp nào đó, ta phải công nhận  ta đã đóng góp tích cực cho xã hội bằng cách đào tạo ra những nhân tài cho xã hội: nhà văn, nhà thơ, học sĩ, nhạc sĩ, cũng như những anh hùng hào kiệt đem lại nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa nhân loại  nhờ vào Tứ Đổ Tường.
Vô  hình chung Tứ Đổ tường đóng vai trò như một  chất xúc tác, một thứ tiếp liệu không chối cãi được.  Trong  tài liệu này nhận định trên được lập lại nhiều lần,  ta  nên giảm thiểu diễn dịch nầy để tránh nhàm chán.
Con người là một sinh vật có tư duy, vấn đề là  phải biết xử dụng tư duy của mình áp chế những tệ hại của đam mê vật chất nâng nó lên hàng sinh hoạt văn hóa cao, phục vụ và tạo dựng hạnh phúc cho con người.
 
Định nghĩa  TỨ ĐỔ TƯỜNG
 
Tứ: Bốn, thứ tư.
 Đổ: vách.
Tường: bức tường xây bằng gạch.
 
Tứ đổ tường là bốn vách tường bao kín, không có lối thoát ra ngoài
Các bậc nho sĩ Việt từ xa xưa quen nói : 酒色財氣四堵牆 (Tửu sắc tài khí tứ đổ tường).  Nói như thế là để so sánh bốn bức tường kín mít ấy với bốn điều tệ hại: Tửu, Sắc, Tài, Khí, mà hễ con người đam mê dấn thân vào đó thì như là vào bốn bức  tường không lối thoát, chịu chết trong đó luôn, hư hỏng cả cuộc đời, uổng phí một kiếp sanh.
 
1. Tửu: rượu. Say mê rượu thịt, nhậu nhẹt say sưa, cuồng tâm loạn trí, trí não hư hỏng, tinh thần suy nhược, hết biết phải trái, hư thân mất nết, không còn phẩm chất con người. Cho nên người xưa mới nói: Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm, (rượu nhập tâm như cọp vào rừng), hay Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị (rượu nhập tâm như chó điên ngồi tại chợ).
  
2. Sắc: sắc đẹp của phụ nữ. Ham mê thú vui xác thịt nam nữ, chơi bời hư hỏng, phạm tội tà dâm, tinh mất khí hư, thần hồn mê muội, bỏ bê gia đình. Cho nên người xưa có câu: Sắc bất ba đào dị nịch nhân: Sắc đẹp phụ nữ không có sóng mà dễ nhận chìm người.
 
3. Tài: cờ bạc. Ham mê cờ bạc, tham lam lợi lộc, làm quấy  liều mạng, bán đồ bán đạc để có tiền nhập sòng, tan nhà nát cửa. Cho nên người xưa nói: Cờ bạc là bác thằng bần.
 
4. Khí: hút thuốc phiện, hít chích các chất ma túy, nghiện ngập, thân thể bịnh hoạn, mất hết nhơn phẩm, trộm cắp hay cướp giựt để có tiền mua thuốc, hút hít cho thỏa cơn ghiền.
Sách Minh Tâm Bửu Giám có bài thi về Tứ đổ tường:
                        Tửu sắc khí tài, tứ đổ tường,
                        Đa thiểu hiền ngu tại nội sương.
                        Nhược hữu thế nhân khiêu đắc xuất,
                       Tiện thị Thần Tiên bất tử phương.
Nghĩa là:
              Tửu sắc khí tài, tứ đổ tường,
                                      Ít nhiều ngu trí ở trong rương.
                                                Nếu như người thế tung ra khỏi,
                                               Ấy cũng Thần Tiên bởi diệu phương
Tóm lược về Định Nghĩa
Tứ đỗ tường là tiếng Nam Bộ, thực ra đỗ là nói theo khẩu âm Nam Bộ, đúng ra là đổ tường. Tiếng Việt có cái lạ là đôi lúc dùng lẫn hán và việt, nên đôi lúc bị hiểu lầm hoặc không lọt tai.Tứ đổ tường có nghĩa là 4 cái nghiệp phá gia chi tử. Bốn cái nghiệp đó là  bốn loại lạc thú trần gian: Cờ bạc -rượu chè - trai gái - hút sách.
Có nghĩa là nếu vướng vào một trong bốn thứ trên, thì trước sau gì cũng tan nhà nát cửa mà thôi. Còn nếu nhiều hơn một, hay nghiện luôn cả bốn thì càng sập nhà cấp kỳ
Ẩn ý của việc sử dụng chữ Hán của người xưa  thật là thâm thuý, sự khám phá này khả tín vì những lý do sau:
Tuy tất cả  đều là thú đam mê, nhưng Tứ đổ Tường không xuất hiện cùng một lúc trong xã hội mà qua thời gian, qua trình độ văn hóa kinh tế của mỗi người ( Thí dụ con người chưa biết đếm, biết tính thì làm sao có cờ bạc? Khoa học kỹ thuật chưa dạy cất rượu thì làm sao mà say sưa?).   Như vậy Tứ Đổ Tường có từ lúc nào, cái nào trước, cái nào sau? Do đó định nghĩa của nó tuỳ thuộc vào những yếu tố này:
* N   *  Nguyên nhân của sự đam mê: bản chất hay lý tính?
Nhân chi sơ, tính bản thiện, Câu này xuất xứ luận điểm của Mạnh Tữ về nhân tính. Tiếp theo là câu: tính tương cận, tập tương viễn : câu này xuất xứ luận điểm của Khổng Tử. Đó là hai câu nói mở đầu của cuốn Tam tự kinh ( sách vỡ lòng dùng dạy trẻ của Trung Quốc) được  soạn thảo như hát vè đọc cho trẻ học dễ nhớ.   Tóm lại hai nhà hiền triết này cho rằng con người có tính lương thiện, nhưng có thể chịu ảnh hưởng của môi trường sống mà biến đổi.  Nói một cách khác thì con người là một sinh vật có tư duy, và tư duy đó đóng vai trò điều khiển cuộc sống con người.    Vấn đề đặt ra  là  tư duy con người chịu ảnh hưởng của Tứ Đổ Tường đến mức độ nào? Nó đã dẫn dắt con người vào những hệ lụy đau khổ ra sao thì quí vị biết rồi.
Thiên Chúa Giáo cho rằng con người sinh ra đã phạm nhiều tội lỗi, cần được cứu rỗi. Trong các điều răn của Chúa, có việc cấm tín đồ gian dâm với vợ bạn (điều trai gái trong Tứ Đổ Tường).Theo Phật Giáo thì con người vi phạm tam giới: tham sân si ( Tham và Si có trong Tứ Đổ Tường)  Trong những  loại tình cảm của con người:   Hỉ (mừng), Nộ (giận), Ai (đau thương), Lạc (vui sướng), Ái (yêu),  Ố (ghét), Dục ( muốn) thì  Lạc, ái, dục có liên quan đến Tứ Đổ Tường.
  Ngoài ra Phật còn cho rằng có 6 nguồn gốc gây sự đam mê gọi là lục căn  hay lục dục: mắt, tai. mũi, lưỡi. thân, ý. Như vậy,  Phật Giáo đã phân tích khá nhiều về  dục vọng con người và chủ trương tu thân và diệt dục. Phật Giáo cấm Phật tử không được uống rượu vì cho rằng rượu là nguyên nhân của mọi tội lỗi và bệnh hoạn, cấm phật tử không được quan hệ tình dục với người không phải là phối ngẫu của mình.  Như vậy, qua Tứ Đổ Tường dục vọng con người được giải quyết  rất nhiều từ vật chất cho đến tinh thần với nhiều hệ luỵ của nó.  Giữa thế kỷ 19, bác sĩ phân tâm học Sigmund Freud (1856—1939) tác giả ba khảo nghiệm về lý thuyết tình dục (1905), ông cho rằng  bản năng bị dồn ép vào vô thức trong một điều kiện nào đó. sẽ điều khiển cách hành xử của con người.  Bản năng không bao giờ thay đổi,  mà  môi trường sống và giáo dục huấn luyện đều chỉ là 1 lớp vỏ bọc.  Nhận định này vào thời điểm đó bị công kích rất nhiều bởi các nhà duy tâm, nhưng không đầy một thế kỷ sau, khoa di truyền học  khám phá ra ge`ne DNA và nhận định của ông  mới không thể chối cãi được.
*Tứ Đổ Tường”:  Sản phẩm của con người tạo ra nhằm mục đích giải toả dục vọng và bản năng nhưng nó lại là con dao hai lưỡi thẳng tay sát phạt tác giả của nó không chút thương tiếc.Nói đến Tứ Đổ Tường là nói đến 4 cái thú đam mê nhiều hệ luỵ cho xã hội: đó là Cờ bạc, Rượu chè, Trai gái, hút Xách. Bốn danh từ ghép này chứa đựng những đam mê có tác hại khác nhau, có thứ đam mê giới hạn một thời gian nào đó rồi lụn tàn, có thứ đam mê đeo đuổi dai dẳng suốt cả cuộc đời.  Nếu tách rời các từ ghép này thì ta có thể kể như sau:
 
      1-  Rượu  +  Chè  (Tửu)
Dân nước nào cũng biết uống rượu, nghiện rượu.   Rượu đặc sản được nâng lên hàng quốc tuý.   Anh  Quốc  thì có : whisky, Scotch,Johny Wakker (Ông già chống gậy).Mỹ Quốc thì có  LSevengrown, Black and White, Gin.  Nga Quốc thì có  Volka còn  Phap Quốc thì có : Cognac Martel (Remi Martin) Champagne
  Riêng Vietnam thì có  : Rượu lúa mới, rượu đế Gò Đen, rượu nếp thang Hóc Môn.  Rượu đế được giới văn nghệ bình dân gọi là rượu nước mắt quê hương. Ở Cao nguyên trung phần có rượu Cần của đồng bào Thượng chứa trong một cái ché.   Thời Pháp thuộc, người Pháp được quyền bán rượu và á phiện, nơi bán những thứ này có biển đề chữ RA ( Région d’alchool) hoặc RO ( Région d’opium)  còn dân thường cất rượu lậu sẽ bị bắt phạt.   Phụ nữ Á Châu hầu hết không uống rượu,  trái lại phụ nữ Tây Phương nghiện rượu có hạng, họ thường giấu khắp nơi trong nhà, thỉnh thoảng tu một hớp cho đến lúc  phải vào Khám cai rượu.  Ở nước ta rượu luôn luôn có mặt trong sinh hoạt hàng ngày: rượu lễ, rượu thường, rượu phạt, rượu mừng, rượu hợp cẩn. Đám cưới mâm trầu rượu phải có..
 Giới lao động bình dân Việt Nam mát rượu vào hàng thứ 3  thế giới, chỉ sau Mỷ và Pháp, họ uống suốt ngày để trợ lực lao động: khuân vác nặng, đạp xích lô, đạp  xe ba gác, thậm chí lái xe nữa .
Rượu là thứ thức uống đa dụng: vui vầy, giải trí giải khuây, lấy cảm hứng, giết thì giờ quên đời.  Việc biết uống rượu được coi là nam tính: Dụng tửu phá thành sầu, Nam vô tửu như kỳ vô phong; họ được goị là đệ tử của Lưu Linh ( vua uống rượu của Tầu) là bợm nhậu , và là con trời: 
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng uống rượu là con Ngọc Hoàng
Người say rượu để lộ bản chất tư cách:   nơi họ  cảm xúc tê liệt và  ý thức vô thức tiềm thức rối loạn, khiến họ không nhớ và không biết gì hết cả. Con cái họ chỉ số thông minh kém vì ge`ne di truyền biến ảo.
Có bài vè sau đây dùng trêu chọc mấy chàng say rượu:
Một xị đả phá thành sầu
hai xị mũi chảy đầy râu
Ba xị ngồi đâu ngủ đó
Bốn xị cho chó ăn chè
*Xị= chai xá xị  tức là  chai root beer của  hãng Phượng Toàn trong Chợ Lớn trước 1975 rất nổi tiếng, vỏ chai thường dùng để đong rượu bán. 1 xị=1/4 lit=6 ly whisky nhỏ.
 
Xin nhắc lại Sàigòn năm xưa, ăn nhậu là một sinh hoạt đặc thù của dân thành phố, đi đâu cũng gặp quán nhậu, từ những quán cóc bán trà lá,  rượu đế, đến các quán nhậu bình dân.  Quán nhậu là một danh từ rất dễ thương vì tính giai cấp của nó, một hình thức quảng cáo rất phổ biến độc đáo không một đất nước nào có được, đã ngon mà lại rẻ, ở đó giai cấp bình dân được tôn trọng và được phục vụ tận tâm ( khác với các nhà hàng sang trọng Tàu Mỹ quảng cáo phục vụ cung đình, nhưng lại dở). Bước vào quán ăn, ai cũng thấy thoải mái vì tính bình dân của nó.  Xin nhắc những quán ăn bình dân của Sài gòn năm xưa: Tám Lọ đường Bùi Thị Xuân và Cống Quỳnh, Ba Râu chợ Xóm Chiếu,  Sống Trên Đời cổng  bà  Xếp Hòa Hưng, các quán hai bên đường Đỗ Thành Nhân, đường hẹp bên này nhìn thấy bên kia, rượu vào sinh ẩu đả, bàn ghế bay qua bay lại nhưng tan cuộc  thì đâu vào đó hòa cả làng.!   Mỗi ngày khoảng 4 giờ chiều ( giờ tan sở) dân Sàigòn thường ghé tiệm rượu thuốc Vĩnh  Sinh Hòa để uống rượu tồn tâm, hoặc uống bia bốc ( bây giờ là bia lên hơi) tại Hồ  Văn Ngà Nguyễn Huệ. Một ký giả Tây Phương viết rằng những cơn mưa Hạ vào buổi chiều của Sàigòn có mùi Alchool.
Trong thi ca  Việt nam hầu hết các nhân vật trong truyện Kiều đều có đụng đến rượu, chẳng hạn, khi  *Kim Kiều gặp lại lần thứ hai:
Chén hà  sánh giọng  quỳnh tương  453
Giải là hương lộn bình gương  bóng lồng 454
 * khi Kiều ỏ lầu xanh: 
  Khi tỉnh rượu lúc tàn canh   1233
Giật mình mình lại thương mình xót xa  1234
* khi Kiều và Thúc Sinh ở Thanh lâu:
Khi gió gác khi trăng sân  1295
 Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ  1296
*  khi Kiều tiễn Thúc Sinh về thăm vợ
Chén đưa nhớ bữa hôm nay  1517
 Chén mừng xin đợi bữa này năm sau  1518
* khi Hoạn Thư bắt Kiều dâng rượu:
  Vợ chồng chén tạc chén thù   1835
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi   1836:
* khi Kim Kiều tái ngộ làm lễ cưới:
 Động phòng dìu dặt chén mồi   3135
 Bâng khuâng duyên trước ngậm ngùi tình xưa   3136
khi Kim Kiều đổi duyên chồng vợ ra tình bè bạn:
 Khi chén rượu khi cuộc cờ   3223
 Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên   3224
 
*Nguyễn công Trứ  trong  bài Hàn Nho Phong Vị Phú:
                                  Vạn tống nhất sinh chung hữu tữu
                                  Sáng mồng một rượu say tuý lúy, tiêu khiển  một vài chung lếu láo
 
Tú Xương:               Say sưa nghĩ cũng hư đời
                                  Hư thời hư vậy say thời cứ say
 
Vũ Hoàng Chương cũng có thơ say:
                                  Em ơi lửa tắt bình khô rượu
                                  Đời vắng em rồi vui với ai
 
*Dương bá Trác: bài Hồ trường:
                                 Chí ta ta biết, Hồn ta ta say
                                 Nam Nhi sự nghiệp như hồ thỉ
                                 Hà tất cùng sầu đối cỏ cây
 
Trên đây đã trình bày sự đam mê nghiện ngập đối với rượu và những tác hại của nó. Trong Phật Giáo việc cấm uống rượu là một  trong  5  giời cấm và cho rằng rượu là nguyên nhân của mọi tội  lỗi và bệnh hoạn. Nhung dù sao việc đam mê rượu vẫn là một thực thể, một bản chất của con người., khi có thể nếu không nói là không có bao giờ bài trừ được, phải chừa một kẽ hở vì  nghĩ cho cùng trên một khía cạnh nào đó rượu chè vẫn thể hiện nét văn hóa đặc biệt của con người mặc dù hại nhiều hơn lợi.
 
 
*Chè
Chè nằm trong liên từ Rượu  Chè trong TứTỗ Tường.  Chè chỉ là tiếng đệm, tiếng Bắc gọi tên Trà.   Thật ra  nghiện  uống trà là một thú vui, nó không nguy hại cho sức khoẻ mà trái lại. Nó không  đem lại tác hại nào cho  xã Hội cả , tuy nhiên uống trà  cũng là một đam mê, nên ta phải tìm hiểu nó.Trà là  một thức uống phổ biến trên thế giới.  Người Ấn Độ có buổi uống trà  vào xế chiều. Dân Á Đông dùng trà  thay uống nước lã. Dân Âu Châu biết uống trà khoảng thế kỷ 16 khi mà các đội thương thuyền Châu Âu đặt chân đến bán đảo Nam Á Ấn Độ Sirilanka ( Ceylan) Bangladesh.
Theo thống kê, thì có 500 giống trà khác nhau được trồng nhiều nhất ở Á châu, Nam Mỹ , Nam Phi. Úc Châu và các đảo Nam. Thái Bình Dương cũng có trồng trà.   Từ lúc gieo trồng  cho đến khi thu hoạch chế biến, trà đã trải qua một quá trình công phu khá phức tạp   Nói chung sản xuất trà theo kiểu công nghệ hóa chỉ có lượng mà không có phẩm, các công  việc sao, sấy tẩm mùi thơm  hóa học đều không đạt yêu cầu.  Trài qua các dây chuyền máy móc đến  lúc đóng hộp thì Trà đã biến chất, mất mùi vị, vì độ khô phải được  áp dụng lúc xuất khẩu.Còn nếu biến chế trà theo lối thủ công cổ truyền thì tốn  nhiều lao động, nhiều thời gian nhưng phẩm chất cao, ngược lại số lượng ít
(100gram trà sen ở Việt nam bán trong dịp Tết  giá  60 dollars  USD)
 Có một điều quan trọng ít ai nghĩ đến là các thực phẩm Á Đông kể cả Trà và cà phê đều phải có một độ ẩm nhất định, nếu không sẽ bị  biến chất vì khô cằn và vô thùng trong việc đóng hộp.
Các loại trà: ướp nhà, ướp sen, ướp ngâu, ướp sói (ướp sao là công phu nhất).Tây phương thì xay lá trà thành bột đóng trong túi nhỏ (lipton),tẩm chanh,quế, ngũ vị mất cả mùi trà.
Nghệ thuật uống Trà: trà pha bình thường, người Việt miền Bắc uống chè xanh bằng bát, người Việt miền Nam uống trà đá giải khát.   Người Anh Pháp  thường  uống trà buổi chiều.
 
      Nét văn hóa  Sàigòn năm xưa: trồng  Lài để ướp trà
 
Vào đầu mùa Mưa, xã An Phú Đông, Gò vấp Gia Định trồng  Lài để ướp trà và bán lẻ từng xâu. Mỗi sáng sớm, có các em gái nhỏ  đi xe bus đem các xâu lài bán cho các quán chợ, hoặc bán cho tài xế Taxi mua treo trong xe. Các nữ sinh mua làm vòng mang tay đến lớp.   Ra đường   đâu cũng phảng phất hương lài, khiến chúng ta  chạnh lòng nhớ kỷ niệm xưa.   Trước 1975, ở Sàigòn có mở các phòng trà ca nhạc  từ xế chiều, giới trẻ đến đó để ca cho nhau nghe vì có sẵn nhạc cụ, đó là phòng trà Đức Quỳnh ( Cao Thắng), đầu tiên, phòng trà Hòa Bình Quách thị Trang, phòng trà Chiều Tím Võ Tánh, phòng trà Thằng Bờm Cây Tre ở Đa Kao nơi đây ca sĩ Khánh Ly được mệnh danh là nữ hoàng chân đất hát nhạc Trịnh  Công Sơn một thời.
Tóm lại nghiện trà  không phải là một đam mê tệ hại trong Tứ Đổ Tường, trái lại nó là một thức uống có lợi cho sức khoẻ, nó đã có mặt trong sinh hoạt văn hóa như trong Kiều có:
 
 Khi hương sớm khi trà trưa   1297
 Bàn vây điểm nước  đường tơ họa đàn   1298
Khi Kiều sống với Thúc Sinh ở Thanh Lâu 
 Mảng vui rượu sớm trà trưa   1473
 Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh   1474
 
Nguyễn Khuyến cũng có  bài thơ nói về uống Trà lúc ông đã bị lòa:
Lâu nay ông chỉ  nghe  bằng mũi
Chẳng biết mùi thơm một tiếng khà!
 
  Còn Tú Xương:
Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó khuấy ta
 
Trong quá trình thành lập nước Mỹ có một giai thoại lịch sử về trà. Năm 1773 để chống việc đánh thuế trà  quá nặng của Mẫu Quốc Anh, một đêm tại Boston bang MA, một số dân cư   đã đột nhập vào kho trà đem quẳng xuống biển số trà  trong kho, khơi mào cho cuộc  khởi nghĩa dành độc lập của nước Mỹ chống Đế Quốc Anh do ông Washington lãnh đạo.
       2/-   Trai gái

Từ ngữ  Trai Gái trong Tứ Đổ Tường có một khái niệm đơn giản là những quan hệ tình dục không lành mạnh vì phạm luân lý và đạo đức, phá hoại gia cang  và hạnh phúc  của người khác, việc đam mê tình dục đưa đến nạn mãi dâm trong xã hội, buôn phụ nữ trẻ em để làm nô lệ tình dục….ấy là chưa kể hiện tượng đồng tính xuất hiện chính thức từ cuối thế kỷ qua, tất cả đều gây nhức nhối cho xã hội qua những bịnh trạng giang mai , nhiễm  HIV AIDS chưa tìm được thuốc  chữa mà chỉ có cách lo phòng ngừa thôi.  Đây là  tệ nạn nan giải của xã hội  ở bất cứ thời đại nào.  Từ xưa đến nay người ta nỗ lực áp chế bản năng tình dục của con người bằng nhiều thứ luật lệ cấm đoán, coi đó là một hành vi thô tục vi phạm luân lý đạo đức., người ta đã lên án mà không cho biện hộ, không đi tìm cái gốc cho nên cấm thì vẫn cấm và phạm thì vẫn phạm.  Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo đều cấm tín đồ không được làm điều tà dâm
(10 điều răn của Chúa và giới thứ 3 trong ngũ giới của Phật. Khổng  Tử thì  nam nữ thọ thọ bất thân ( kết quả tỉ lệ  nghịch dân chúng Tàu hiện trên 1 tỉ người).
Vấn đề là chúng ta có đủ can đảm để mổ xẻ, phân tích nghiêm túc để tìm ra nguyên nhân cuối cùng của nó hay không? Từ xưa đến nay người ta vẫn né tránh việc mở lại hồ sơ này, đụng tới nó là bị dị ứng và nó đã được khóa chặt bởi bao nhiêu pháp chế luân lý đạo đức khiến cho mọi người nghi ngờ thực chất của nó.    Con người là một sinh vật như các sinh vật khác, nhưng khác ở chỗ có lý trí có tư duy. Lý trí chi phối bản năng dục vọng qua môi trường sống.,qua tập quán, qua nền giáo dục và qua những luật lệ do con người đặt ra. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì các sinh vật đều có một khuynh hướng đam mê một thứ gì đó từ vật chất đến tinh thần và con người cũng không thoát khỏi nhận xét đó, đôi khi nó còn gia trọng hơn. Con người có 7 loại tình cảm: hỉ ( mừng), nộ (giận) ai ( buồn thương), lạc (vui), ái (yêu), ố ( ghét) dục (muốn). Sự  đam mê ( dục) theo Phật Giáo có 6 nguồn gốc ( lục dục): mắt, tai, mũi, lưỡi,, thân, ý, tất cả đều mang cảm xúc riêng. 
Như vậy việc luyến ái nam nũ bắt nguồn từ ái ( yêu) và dục ( muốn), trong đó thân dục ( nhục dục) là bạo nhất. Sự luyến ái nam  nữ gồm 2 phần tinh thần  và vật chất. Theo quan niệm Á Đông  thì tình yêu tinh thần là tiền đề cho tình yêu vật chất, nó quan trọng nên họ đề cao vai trò của nó nhằm duy trì trật tự xã hội.Theo các nhà khoa học xã hội thì tình yêu (love) và tình dục( sex) gần như  là  một,  sở dĩ có thứ tự là do sự áp chế của lý trí con người.   Xin  quí  độc giả  bỏ qua chuyện luyến ái tinh thần vì nó thuộc phạm vi quá rộng lớn, nó là nét văn hóa quá phức tạp nhất và để lại biết bao di sản văn chương  văn học cho con người bởi những xúc cảm mà nó đã đem đến: thăng hơa củng có mà khổ đau cũng có.
 
Ở đây chúng ta chỉ  phân tích tình dục (sex) vì nó là thủ phạm chính trong Tứ Đổ Tường và gây tệ hại nhiều nhất cho xã hội. Người ta kết án tà dâm, còn chính dâm thì sao? chẳng có câu trả lời nào và bỏ ngỏ từ xa xưa đến bây giờ.
 
 
Chúng ta đang đi vào thế kỷ 21 và lại đang ở Mỹ nữa, một đất nước được gây dựng bởi những lý tưởng tự do và bình đẳng của con người, trình độ dân trí cao, tư duy phát triển toàn diện, tự do tuyệt đối, trong đó có tự do luyến ái nam nữ.  Đối với các nước Âu Mỹ, việc quan hệ tình dục được xác nhận là một đời sống (sex life) do đó họ rất chú trọng vệ sinh tình dục, và coi việc quan hệ tình dục là một sinh hoạt bình thường của bản năng, không quan trọng nó mà cũng không cấm đoán nó. Để ngăn ngừa những bệnh hoạn và tệ nạn xã hội do nó  gây ngay từ buổi đẩu, các trường học đều có những lớp hướng dẫn về luyến ái nam nữ, vệ sinh phòng ngừa. Kế hoạch gia đình, chuẩn bị một cuộc sống gia đình mạnh khoẻ hạnh phúc, một xã hội an toàn. Đối với những tệ nạn trên, người ta  tìm cách qui kết chúng lại các tụ điểm để giải quyết vấn đề do bản năng, lái nó đi vào chiều hướng lành mạnh nghệ thuật, giải trí , hơn là  một kỹ nghệ khai thác bản năng, để con người có một trình độ văn hóa cao hơn. Đó là lý tưởng của các nhà Xã hội học, nhưng thực tế chỉ có được phần nào,  vì tư bản nhảy vào kinh doanh tình dục biến nó thành một kỹ nghệ khai thác bản năng của con người, do vậy việc cấm đoán và thỏa mãn  gần như sóng đôi nhau, nhưng dù sao đi nữa Xã hội vẫn đã kiểm soát và giảm thiểu phần nào những tệ hại đó.
Đi sâu vào vấn đề, xưa nay các nhà nghiên cứu tâm sinh lý và tình dục học đều xác nhận bản năng con người có một sức thật mạnh mà lý trí có lúc không chế ngự được. Bác sỹ Sigmund Freud cho rằng bản năng dục bị dồn nén vào vùng vô thức nó sẽ chỉ huy cách hành xử của con người khi có điều kiện.   Theo ông, thì  môi trường xã hội, sự giáo dục phát triển tri thức luân lý, đạo đức, pháp chế chỉ có thể làm vỏ bọc  bên ngoài của bản năng mà thôi. Ông cho rằng bản năng là một  thứ vật chất không biến đổi được, là như một di truyền trong sinh vật vậy ( vào thời đó thuyết di truyền học  còn đang tranh luận). Chấp nhận luận chứng trên, ta có thể tìm hiểu nguyên nhân của các bệnh sau đây:
1-    Bệnh sex addict còn gọi là sexual compulsivity thường gặp  phải ở các đấng tài ba như nhà tu hành đạo đức, trí thức, chính trị, kinh doanh đại tài, nhà quân sự hoặc ông vua liêm chính thân bại danh liệt vì những vụ tai tiếng tình dục đôi lúc không thể tin được vì nó quá đặc biệt .
2-    Bệnh Bipolar disorder hay gặp ở các tài tử, nghệ sỹ văn sĩ lỗi lạc, tâm tư họ thường rối loạn bởi sự hưng phấn và trầm cảm chồng tréo nhau khiến họ mất tự chủ dẫn đến tự hủy diệt tự sát (Ernest Hemingway).  Y học cho rằng do sự thay đổi hóa chất scrotorium và dopamine trong não bộ, trên phương diện tâm lý người ta cho là bệnh nghề nghiệp.
3-    Bệnh Alleyzeimer: thoái hóa tế bào não mà ý thức, vô thức, tiềm thức  rối loạn hoặc ngưng hoạt động khiến bệnh nhân chỉ còn sống trong đời sống thực vật.
Nói tóm lại việc nghiên cứu khoa học đã cho thấy bản năng đóng vai trò chủ đạo trong cuộc sống tình dục con người, đôi khi nó còn lấn át cả lý trí, nên đã có nhận định “tình yêu trai gái là bản năng đã được tư duy hóa” là vậy.
Xã hội Âu Mỹ mặc dù có cuộc Cách Mạng tình dục để  cho Nam Nữ tự do luyến ái, bình thường hóa sinh hoạt tình dục, bất chấp việc kinh doanh kỹ nghệ  hóa hoạt động tình dục như các club, showgirl, massage, tắm hơi mãi dâm trá hình, sex tour, sex toy, buôn phụ nữ trẻ em làm nô lệ tình dục, nhưng đạo đức Xã hội vẫn được duy trì, luật pháp vẫn được áp dụng, các sinh hoạt Tứ Đổ Tường ( trong đó có tình dục) được nâng lên hàng giải trí nghệ thuật có văn hóa, việc chạy chữa và phòng ngừa các bệnh do Tứ Đổ Tường gây ra được thi hành tích cực.
Trở lại Châu Á, sinh hoạt tình dục coi là một điều cấm kỵ xấu xa, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác,  trai gái lớn lên đều bị răn đe hù dọa, cấm đoán tiếp xúc, như là một luật lệ Nam Nữ thọ thọ bất thân, hậu quả con người phát triển không bình thường, bản năng bị dồn nén, vô tình tạo ra  hệ luỵ cho xã hội.    Á Đông đặt đạo đức lên trên, không coi trọng giá trị luyến ái  tinh thần, lên án điều tà dâm nhưng lại tránh né chính dâm, rốt cuộc chính cũng như tà  đều xếp trong  bóng tối của đạo đức giả. Họ quan niệm hôn nhân là nghĩa vụ truyền giống nối giõi tông đường, có những cuộc hôn nhân cưỡng chế xếp đặt không có  tình yêu mả chỉ có  tình nghĩa vợ chồng, nam nữ không bình đẳng, bảo thủ tệ hại còn hơn bên Âu Mỹ, bên cạnh việc hưởng lạc không khác gì nhau. Ngày xưa các vua chúa tha hồ trác táng tam cung lục viện khiến ông vua trẻ  lên ngôi không được bao lâu thì băng hà về chầu tiên đế. Còn ngoài xã hội dân sự thì sao?  cũng thanh lâu hồng lâu kỹ nữ-- giống như vũ trường hộp đêm ở Âu Mỹ vậy, việc hưởng lạc cũng được nâng lên nghệ thuật giải trí của giai cấp phong lưu, các cụ  thì chuyền tay nhau toa thuốc  Lão  của vua Minh mạng.
  
       3/-   Đánh Cờ-------à Đánh bạc  (Tài)
Không biết xuất hiện vào thời đại nào của nhân loại, có người cho rằng nó có mặt sau khi con người biết đếm hoặc tính toán. Trong sách sử Trung Quốc có ghi kể 2 cuộc cờ nổi tiếng:
a-  Nước Tề, có Chung Vô Diệm vợ vua Tề tuyên dương đấu cờ với Hầu Anh ( 1 con khỉ rất khôn) của nước Phiên ( có cuộc  bên thua sẽ cắt đất). Chung Vô Diệm nhờ thầy mách bảo dùng kế phân tâm (điã trái đào) tráo cờ rồi thắng cuộc  sau đó chém Hầu Anh.
b-  Đời Đường: vua Đường Thái Tôn dùng kế vời Thưà Tướng Ngụy Trưng  vào cung để đánh cờ,  hầu ngăn không cho Thừa Tướng xuất hồn đi xử trảm Long Vương vì ông này cãi mệnh Trời để ăn thua đủ với ông thầy bói Chợ Cửa Bắc Thành Trường An.
Người Tầu gọi cờ tướng là  tượng kỳ ( cờ voi).  Ngoài Trung Hoa ra, các nước vùng Đông Nam Á chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa đều chơi cờ này. Người đấu cờ gọi là kỳ thủ, các quân cờ là lực lượng vũ trang có cấp bậc như sau: tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt.  Thắng cuộc tức chiếu bí tướng không biết đi đâu mà chờ chết, có những ván cờ bất phân thắng bại dù kéo dài thời gian đến đâu cũng phải thủ hoà. Cho đến bây giờ, không có ai biết cờ tướng có bao nhiêu thế, năm 1972 chính phủ Nhật đã giao trả cho Đài  Loan một quyển cờ thế, có ghi chép trên 3 ngàn thế,  hiện  trình bày tại viện Bảo Tàng Đài Trung.
Thập niên 60 của thế kỷ trước, ở Chợ Lớn có tổ chức cờ người trên sân Tinh Võ ( quân cờ là người mặc áo và cầm cờ có tên). Đây là hình thức cá độ biến thành cờ bạc. Vua cờ tướng lúc đó là  Kỳ Vương Lý Chí Hải.
Cờ tướng  được phổ biến ở các tiệm hớt tóc, quán cà phê. Riêng Sàigòn năm xưa cờ tướng là một hình ảnh văn hóa đặc thù chỉ riêng Sàigòn mới có. Trên các vỉa hè, lề đường, ở đường Hàm Nghi, Hùng Vương, Nguyễn Trãi các Kỳ thủ thường bày cờ thế để kiếm ăn * ai thua phải chung tiền- còn thắng thì kỳ thủ tài tử  năn nỉ  để xin tha mạng.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du ít có nói đến đánh cờ, tuy nhiên ít hơn là uống rượu. Dịp Kim Kiều tái ngộ  :
Chàng dù nghĩ đến tình xa
Đem tình cầm sắt đổi ra  cầm kỳ  (3109-3110)
 hay
Khi chén rượu khi cuộc cờ  (3223)
Khi  trông hoa nở, khi chờ trăng lên (3224)
 
Nhà thơ Hồ Xuân Hương có bài đánh Cờ Người:     
Khi vui nước nước non non
Khi buồn  lại vẽ bàn son  quân cờ
 
Tây Phương có cờ vua cũng hấp dẫn không kém cờ tướng,  hàng năm đều tổ chức tranh giải quốc tế, đặc biệt cờ vua đánh có thời gian giới hạn (đồng hồ) và cũng có đánh cuộc cá độ.
Thuộc về Đánh Cờ, có thể kể chơi Tổ Tôm, mạt chược, domino. Nói tóm lại đánh cờ là một trong những thứ đam mê già trẻ  bé lớn trí thức hay bình dân đều thích chơi cờ, nhưng chỉ được  một thời gian rồi chán, do đó nó không đến nỗi tác hại đến cuộc sống.  Về mặt tâm lý có người cho rằng mỗi  một ván cờ có thể đoán được tính nết một người như thế nào.
Đánh cờ  biến thành đánh bạc  
 Người Việt đánh bạc bằng cách chơi tổ tôm (môn chơi của Việt Nam), mạt chược (môn chơi của Tàu),  Domino (( môn chơi của Âu châu),
Đánh bạc: người đời ai cũng biết đánh bạc (một vé số để thử thời vận may rủi là có máu đỏ đen rồi),.   Năm mười năm trước, đi Las Vegas không thấy  người Việt bây giờ thì người Việt chia bài, các đại gia ngồi bàn tròn hội nghị. Trên thế giới nước nào cũng có lập trung tâm cờ bạc nhằm mục đích qui tụ những tệ nạn đỏ đen không có không được này, đồng thới kích động  kỹ nghệ cờ bạc  cùng những phụ hệ của nó: dịch vụ Ăn nhậu, hộp đêm, giải trí mại dâm trá hình vũ trường, đua ngựa: Las Vegas, Atlantic ( Mỹ) Cane Monte Carlo. Monaco ( Pháp), Macao, Hồng Kông.   Việt nam, thời Pháp thuộc, Sàigòn được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông với những sòng bài Kim Chung, Đại Thế Giới.
Những tay cờ bạc được người đời tôn vinh là vua:
Chanh chua mà khế cũng chua
Mấy thằng cờ bạc là vua ăn mày
hay được gọi là bác  
Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết ra thân bần cùng
 
Sự tác hại của đánh bạc không thể lường được, nhiều người tán gia bại sản cũng vì đam mê  đánh bạc, thậm chí đến bán vợ độ con, sự đam mê không thể  chữa được, dường như nó ăn sâu vào trong huyết quản vậy.
Ở nước ta, đánh bạc là  một sinh hoạt văn hóa đặc thù trong ba ngày tết, già trẻ giầu nghèo đều chơi bài bạc:
Tháng  giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè
 
Từ lắc bầu cua ở các vỉa hè góc phố đến những sòng bạc tổ chức tại tư gia, sau buổi tiệc tàn, luân phiên cho đến hết tháng giêng, đây là một lệ làng của người dân và nó tự giác dẹp khi hết tết,mà đa số không cần có sự can thiệp của pháp luật.
(Còn tiếp)
co  
#2 Đã gửi : 19/08/2013 lúc 01:31:05(UTC)
co

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 30-07-2013(UTC)
Bài viết: 1,345

4- Hút xách
Trong Tứ Đổ Tưởng) hút xách có nghĩa là hút á phiện ( xưa) ma tuý, xì ke (nay), bạch phiến
Thế kỷ 15, Marco Polo dùng con đường tơ lụa qua Tàu ngang các nước Trung Á, thấy dân ở đây trồng cây thuốc phiện, lấy nhựa chế biến thuốc phiện gây nghiện mạnh nhất tạo cảm giác hưng phấn. Marco thấy hay hay liền đem thuốc phiện về Châu Âu cho mấy bà mệnh phụ thưởng thức, nhưng không phổ biến vì phản ứng phụ của nó. Mãi đến cuối thế kỷ 18, số người dùng thuốc phiện mới gia tăng khắp nơi và được coi là món hàng kinh doanh béo bở nhất. Khi mà các nước Anh Pháp Tây Ban Nha Bồ Đào Nha đổ xô đi tìm thuộc địa, thì Anh Quốc thành lập công ty Đông Ấn chuyên thu mua và buôn bán trà, rượu, thuốc phiện. Thuốc phiện, trở thành món hàng chiến lược quan trọng nhất. Đầu thế kỷ 19 người Anh đem thuốc phiện nhập vào Trung Quốc Nhận tấy sự tai haị của nó vào thế hệ trẻ: thần kinh co cụm, hậu quả người nghiện có thể bạc nhược không thể lao động, trong người hết thuốc là phải hút tiếp, tình trạng ngày càng leo thang, nên Tổng Đốc Lưỡng Quảng ( Quảng Đông và Quảng Tây) là Lý Hồng Chương tịch thu số thuốc phiện của người Anh khoảng 10 tấn đem đốt huỷ bỏ, lập tức Anh Quốc liên minh với 7 nước khác
( Pháp, Tây ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà lan, Đức, Nhật) gọi là Bát Quốc liên minh đem quân đánh Tàu, triều đình Mãn Thanh thua chạy lên miền Bắc, cung điện mùa hè của Từ Hi Thái Hậu bị đốt, kết cuộc Mãn Thanh phải ký hòa ước nhường đất và bồi thường chiến phí. Hồng Kông thuộc Anh. MaCao thuộc Bồ Đào Nha Thượng Hải thuộc Pháp, Đài Loan thuộc Nhật.
Ở Trung Mỹ từ đầu thế kỷ 19 mới bắt đầu trồng thuốc phiện và nhanh chóng chiếm thị trường Bắc Mỹ . Nơi trồng thuốc phiện Colombia, Vénézuéla,Costa Rica, Nicaragua) dần dần mở rộng ra toàn thế giới. Giới khoa học đã tinh chế từ á phiện thành bạch phiến, xì ke hít hoặc chích, khiến cho toàn thế giới phải lo lắng. Thế lực của các tổ chức buôn bạch phiến cả kinh tế lẫn chính trị ở nhiều nước tạo ra một tệ nạn cho cả loài người phải khống chế. Hiện tại bạch phiến khô một chiết xuất từ nha phiến và từ nhiều thứ hóa chất khác tổng hợp thành một thứ thuốc gây nghiện nguy hiểm hơn nữa. Hút xách ở đây là chữ đề cập đến việc nghiện ma tuý chứ không phải nghiện thuốc lá nên chúng tôi không đề cập đến cái thú hút thuốc lá gây tác hại như thế nào cùng với những đam mê nghiện ngập của nó. Chúng ta cũng nên biết rằng thuốc lá cũng đang bị bài trừ không hơn gì ma tuý.

Một điều đáng khôi hài : ma tuý, bạch phiến gây tai hại cho xã hội loài người, nhưng cũng đem nhiều lợi ích. Trong y khoa nhờ chất morphine tìm được trong á phiện mà y học đã giúp cả triệu thương bệnh binh được giảm đau trong lúc chờ giải phẫu trong thế chiến thứ 2. Về mặt văn chương, giới văn nghệ sĩ thường gọi thuốc phiện là nàng tiên nâu, hoặc thú yêu sĩ phi lý thuần
( inspiration). Vào thế kỷ 19-20, một số văn nghệ sĩ lấy cảm hứng để sáng tác bằng cách hút thuốc phiện, do đó thuốc phiện đã có một lợi ích cho việc sáng tác văn nghệ nào đó bên cạnh những tội lỗi mà nó đã gây ra.

*Cần Sa
Vào giữa thế kỷ trước, cây cần sa đã xuất hiện với cách gây nghiện : nửa bạch phiến nửa thuốc lá, khiến cho giới trẻ trên thế giới đón nhận triệt để , và một hệ lụy thứ ba đã xẩy ra cho loài người. Việc gieo trồng cần sa để khai thác kinh doanh tiến nhanh với mứ độ khủng khiếp ngang hàng với việc tiêu thụ nó. Về mặt y khoa, cần sa cũng hữu dụng như bạch phiến, nó được dùng như một dược liệu để trị bệnh, một số tiểu bang ở Mỹ ( Colorado, Connecticut) cho phép bán cần sa cho bệnh nhân để làm thuốc trị bệnh với một liều lượng nào đó.

Nói tóm lại những hệ lụy do bạch phiến cần sa, thuốc lá gây ra to nhất cho xã hội. Việc cấm đoán chống đỡ và tiêu diệt chúng có thể cho rằng đây là một trận chiến khốc liệt nhất trong các trận chiến bằng súng đạn và nhiều nước đã thất bại và tiêu vong vì chúng, hiện giờ trận chiến vẫn đang tiếp diẽn.

*Xách
Theo Giáo Sư Vương Hồng Xển, Xách chỉ một động tác của người nghiện á phiện đó là: Tay xách bàn đèn. Xách là cầm, là mang bằng tay, đơn giản thế thôi, cho việc di chuyển trang thiết bị của hút thuốc phiện. Cũng có người cho rằng chữ Xách chỉ là tiếng đệm đôi mà thôi cho có vần trong Tứ Đổ Tường.

Đoạn Kết
Xét công và tội của Tứ Đổ Tường, thì công thì ít mà tội thì nhiều. Tuy nhiên Tứ Đổ Tường là một thực trạng xã hội Việt cũng như xã hội loài người, khó mà diệt trừ nó. Nếu muốn cho tệ nạn Tứ đổ Tường giảm thiểu đi tại quê hương Việt, thì các vị lãnh đạo các tôn giáo Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo ráng sống đúng dung mạo của Đức Chúa Giêsu và dung mạo của Đức Phật Thích Ca trong khi giảng dạy giáo lý hoặc đạo pháp của mình để làm gương sáng cho các giáo hữu hoặc đạo hữu của mình noi theo, đồng thời xã hội Việt ở trong nước cũng như các cộng đồng người Việt hải ngoại cần có nhiều tâm lý gia sở trường lái giới trẻ Việt hướng những đam mê của mình vào những hoạt động hữu ích cho xã hội. Nếu được như vậy, thì xã hội Việt sẽ trở thành xã hội lành mạnh,
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.501 giây.