logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
co  
#1 Đã gửi : 03/09/2013 lúc 06:47:10(UTC)
co

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 30-07-2013(UTC)
Bài viết: 1,345

UserPostedImage
Người yêu thích thơ hẳn có mối quan tâm tới nhà thơ cho dù có thể xa cách về thời gian và không gian. Từ mối quan tâm này, người yêu thơ muốn tìm hiểu hoàn cảnh sống của thi nhân để bắc nhịp cầu cảm thông. Thi hào Nguyễn Du từng viết hai câu khi đọc thơ Đường: Thi nhân bất đắc kiến. Kiến thi như kiến nhân (Khách thơ nào thấy được, Đọc thơ như thấy người).



Thì ra thơ là chân dung nhà thơ vẽ bằng lời và hơn thế nữa là bức phác họa lược sử thi nhân.

Mặt khác, thơ là một chuỗi hình ảnh xã hội hay những trang sử thời đại mà thi ca phản ánh, và nếu dùng từ của Nguyễn Mạnh Côn, thì nhà thơ thường “đem tâm tình viết lịch sử”. Hiển nhiên, sử này không hoàn toàn khách quan nhưng lại thấm hơn, đậm hơn những dòng sử biên niên khô khan.

Cung Trầm Tưởng, nổi tiếng từ cuối thập niên 50, vào mùa hè 2012, đã cho phát hành toàn tập thi ca của đời ông mang nhan đề Cung Trầm Tưởng, một hành trình thơ (1948-2008).

Nhờ thế chúng ta có dịp đọc lại gần như toàn bộ thơ Cung Trầm Tưởng và thử xem ta biết gì về ông và những thăng trầm lịch sử qua thơ ông. Đọc một lúc bảy tập thơ của nhà thơ từng quyến rũ tuổi trẻ thập niên 60 thế kỷ trước, độc giả vừa hào hứng tìm lại tuổi thơ đã mất vừa mong đợi hòa đồng vào hơi thở của thời đại có quá nhiều biến cố.

Tuyển tập Hành trình thơ gồm bảy thi tập ghi lại hành trình hơn nửa thế kỷ của một nhà thơ dấn thân và được nhiều người yêu mến: Sóng đầu dòng-Tình ca và Quá độ; Lời viết hai tay; Bài ca níu quan tài; Những dấu chân ngang trên một triền phiếm định; Thi bá-Con tắc kè và Bà góa phụ; Mỗi dặm đường một nghìn vần thơ; Sáng ký về người tình đầu.

Đúng là một hành trình phong phú vì “mỗi dặm đường một nghìn vần thơ” và cũng là tuyển tập đặc sắc mang dấu vết một con người tài hoa bị đày đọa trong một đất nước trải qua cơn đại hồng thủy.

Cổ nhân có nói: “thi hữu cùng nhi hậu công”, nhà thơ có nếm trải khổ đau thơ mới hay. Nhờ đó, người đọc có thể tìm thấy bóng hình mình và tâm trạng mình trong những vần thơ mà mình không có khả năng giãi bày.

Nhưng ta dùng khuôn thước nào để hướng dẫn việc thưởng thức hàng nghìn vần thơ mà mới xem hình như cảm xúc và vần điệu có chỗ biến đổi tới mức đối lập?

Trước hết, ta phải làm quen với ngôn ngữ của Cung Trầm Tưởng như ông đã từng chủ trương từ những vần thơ đầu tiên.

Khi chưa tròn ba chục, vào năm 1960 trong một cuộc thảo luận về thơ ca trong nhóm Sáng tạo với Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ, Duy Thanh, Lê Huy Oanh và Nguyễn Sỹ Tế, nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã bảo vệ ý kiến:

“Ngôn ngữ thời đại nào cũng có cái thần diệu riêng. Thời đại chúng ta có ngôn ngữ thần diệu của chúng ta. Ngôn ngữ không bất di bất dịch. Nó biến đổi theo tâm trạng thời đại. Mỗi thời đại có một tâm trạng riêng thì ngôn ngữ biểu hiện tâm trạng thời đại tất nhiên mang một sắc thái riêng”.

Cũng không thể không quen với quan điểm về thơ của tác giả Một Hành trình thơ:

“Điểm khác biệt rõ ràng là rung cảm về thơ ngày trước thiếu cái say sưa mà người ta thấy trong rung cảm về thơ bây giờ”.

Khi thưởng thức những vần lục bát mới lạ thì đừng nên quên tác giả đã từng ca tụng thể thơ này:

“Thể lục bát, một thể thơ thuần túy Việt Nam vẫn còn có thể diễn đạt được khát vọng của người thơ hôm nay. Ngôn ngữ thơ bây giờ vẫn có thể biểu hiện qua thể lục bát mà không bị cưỡng ép và rơi vào cạm bẫy thơ lục bát thời trước”.

Đã có kim chỉ nam đọc thơ Cung Trầm Tưởng chúng ta hy vọng tìm được về bản chất có sự đồng nhất trong cảm xúc, trong vần điệu từ Sóng đầu dòng tới Sáng ký cho dù khi tâm tình phóng ngoại có hình thức khác biệt.

Nói tới bản chất, phải khẳng định Cung Trầm Tưởng là nhà thơ trữ tình. Đọc toàn thi tập hẳn rõ ông không phải là thi sĩ có khuynh hướng tôn giáo, đạo đức, triết lý hay chính trị mà cho dù có lúc dùng thơ để tố cáo bất bình thì cũng chỉ biểu lộ tình cảm bị chèn ép quá mức nên thốt ra lời như người xưa đã từng nói: “Đại phàm vật bất đắc kỳ bình tắc minh”. Hiếm có thi nhân trung thành với cảm xúc từ sáng tác đầu đời tới sáng tác cuối đời như Cung Trầm Tưởng. Phải chăng ông là mẫu người đa cảm, mẫn cảm sâu lắng mà tâm lý học gọi là mẫu đam mê EAS (emotif- actif- secondaire)?

Căn cứ vào những “chỉ nam” đã kể, hy vọng nếu ta chong đèn suốt đêm đọc toàn bộ Hành trình thơ của Cung Trầm Tưởng, sẽ không đến nỗi như du khách tới thăm Lư Sơn mà không tìm được chân diện mục của Lư sơn.

Tình trạng này xảy ra với không ít độc giả khi tóc còn xanh chỉ biết Cung Trầm Tưởng qua những bài thơ trữ tình được phổ nhạc. Nay có dịp vào khu vườn thượng uyển “Một hành trình thơ” có thể lạc lối và cũng có thể băn khoăn. Lúc đó e rằng có thể uổng phí biết bao vần huyết lệ mà nhà thơ đã gửi cho đời như trong những tập thơ Lời viết hai tay và Bài ca níu quan tài...

Trở lại Cung Trầm Tưởng tuổi hai mươi và cảnh đời thanh bình trên đất Pháp những năm trong thập niên 50 và đầu 60. Khi ấy thơ tình ướt át của ông ca tụng phong cảnh ở nơi xứ lạ quê người chỉ là một phần nhỏ trong thơ ca của Cung Trầm Tưởng. Ngừng lại ở những bài như Chưa bao giờ buồn thế và Mùa thu Paris là không thấy “chân diện mục” của Lư sơn nghĩa là chưa thấy hết tài hoa và “tấc lòng để ngàn đời” của Cung Trầm Tưởng.

Trong tác phẩm đầu đời của ông, Sóng đầu dòng, tình cảm thể hiện bằng mơ mộng, nhuốm vẻ lãng mạn nảy sinh trong hoàn cảnh khói lửa, khi bao chàng trai theo tiếng gọi của núi rừng, máu sôi sục muốn ra đi để giải phóng giang sơn và bảo vệ tổ quốc. Đó là giai đoạn của phong trào Nam tiến, và của thế hệ trẻ nơi “Ba mươi sáu phố phường” ngày xưa muốn “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Đối với họ, đó là dịp thực hiện cuộc phiêu lưu hào hùng, giấc mơ tráng sĩ, thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của Hà thành hoa lệ. Nguồn thơ dâng lên mọi trái tim, từ đó ra đời Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Đôi mắt người Sơn tây (Quang Dũng). Cung Trầm Tưởng ở thế hệ đàn em so với các thi nhân trên, nhưng cái hùng khí của chàng thanh niên còn cắp sách tới trường ngun ngút cháy trong tim không kém.

Sóng đầu dòng là sóng lòng vì đời của chàng tuổi trẻ tuổi họ Cung, sau năm 1946, khi còn tay trắng mộng đầy (ông sinh 1932). Những vần thơ sau đây sáng tác tại Việt Bắc năm 1948 cho thấy lòng gắn bó với quê hương khăng khít như thế nào trong hồn nhà thơ trẻ.

Đây là vẻ đẹp của núi rừng đất nước trong bài Theo nhịp đường về:



Ra đi từ Phú thọ

Tôi ngược nước sông Thao.

Một thôi trời nắng ngọ

Tôi đà đến rừng cao.

Những dẫy chè có gió đến lao xao

Song song chạy lên đồi tròn núm vú

Một khóm trắng giương vành và mở nụ

Cũng nghiêng nghiêng đón gió lả lơi cười

Tôi thấy thơm cả cái nắng trong trời

Mùi lá dứa, mùi rừng ngây cỏ dại…



Còn đây là tình chàng trai Hà nội đối với em gái hậu phương:



Anh Hà nội về thăm em cố huyện

Người em hiền chàm áo vải Tuyên quang

Lam non cao, xanh lũng thấp đèo ngang

Pha mối đợi lòng em màu vạn cổ.

Mai thiêu nắng hay trời giông bão đổ

Mai anh về như máu trở về tim

Dâng lên em, người xóm trúc đồi sim

Tình phố thị thương núi rừng trọn nghĩa…



Lòng yêu quê hương không được đón nhận như mong đợi và thực tế khiến bao lớp trẻ ngã lòng. Họ, những người trưởng thành sau 1945 (sinh khoảng trước sau 1930), đã nói lên điều uất ức vì bị lừa lọc, bị lợi dụng như Tạ Ký (sinh 1932) viết trong bài Thế hệ bốn lăm:



Chúng tôi thế hệ bốn lăm

Vui chưa bao nhiêu nhiều lúc khóc thầm

Một phần tư thế kỷ

Lừa lọc, gian ngoa, một bầy ác quỷ
Tuổi thanh xuân tàn như một giấc mơ…



Bước sang giai đoạn thứ hai của đời thơ, Cung Trầm Tưởng tiếp tục sống tuổi hoa niên và cắp sách tới trường. Đây là lứa tuổi mà tình cảm phóng ngoại thành khát vọng yêu đương nhất là lúc ông sang Pháp du học. Trong giai đoạn nhà thơ trữ tình dấn thân vào con đường tình ái, tiếng lòng của ông là tiếng tha thiết của con tim. Yêu thì buồn nhiều hơn vui với những cái buồn nhiều khi vô cớ, đôi lúc có nguyên nhân vì nhớ nhung, chờ đợi, xa cách, giận hờn. Con tim thổn thức trong phong cảnh đẹp như thơ của Paris, Nice, Aix-en-Provence, Les Houches... và những vần thơ tình yêu thuộc loại tươi nhất và thấm thía nhất trong thơ ta ra đời. Ngày nay đọc lại, chẳng mấy ai không nhớ lại chuỗi ngày xanh điểm nét u sầu nhưng rất mộng:



Lên xe tiễn em đi

Chưa bao giờ buồn thế

Trời mùa đông Paris

Sướt mướt làm chia ly

Tiễn em về xứ mẹ

Anh nói bằng tiếng hôn

Không còn gì lâu hơn

Một trăm ngày xa cách…

Ga Lyon đèn vàng

Tuyết rơi cuồng mênh mang

Cầm tay em muốn khóc

Nói chi cũng muộn màng…

(Chép theo đúng bản in của Hành trình thơ, có nhiều chữ khác với bản nhạc. Nên chú ý lời nhạc đã bỏ mất nhiều chi tiết trữ tình, mộc mạc của thơ).



Người yêu thơ một thuở đã hòa lòng vào Chưa bao giờ buồn thế, và người chưa tới Paris cũng cảm thấy cái đẹp của thành phố trong mơ và cuộc tình vu viễn:



Mùa thu Paris

Trời buốt ra đi

Hẹn em quán nhỏ

Rưng rưng rượu đỏ tràn ly

Mùa thu đêm mưa

Phố cũ hè xưa

Công trường lá đổ

Ngóng em kiên khổ phút giờ…



Ngòi bút của nhà thơ họ Cung dù nói về mùa thu hay mùa đông Paris đều tạo thành những tình khúc tuyệt vời, những ca khúc diễm lệ vì thơ ông bản chất đã là những điệu nhạc và những bức họa.

Tuy nhiên, không phải thơ Cung Trầm Tưởng chỉ có những vần thơ tiễn biệt lãng mạn nhẹ nhàng mà sau này thơ ông đi sâu hơn, sầu buồn chất ngất trong từng chữ từng vần trong nhiều vần thơ khác trong Tình ca. Ngoài ra thơ ông, không phải chỉ thành công với loại câu dài ngắn khác nhau mà siêu việt hơn cả với các bài lục bát, như trong bài Khoác kín, tả được nỗi cô đơn của nhà thơ và vẻ ngoạn mục của Les Houches, một vùng thắng cảnh ở Rhône-Alpes trong vùng đông nam nước Pháp mà mùa tuyết phủ thường đón mời du khách và kẻ hâm mộ môn trượt tuyết.

Trước khi bước sang tập Quá độ ghi lại cảm xúc của thi nhân trong giai đoạn 1958 tới 1975, chúng ta hãy tạm ngừng thưởng thức thêm những vần lục bát mướt như tơ, êm như nhung trong bài Ngôi nhất, tả tình yêu ngây thơ, thăng hoa trong phần Tình ca làm nhớ tới Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Huy và Nguyễn Bính (trong bài Ái khanh hành) trước kia:



Hoa xuân nồng, trái xuân ngon

Mùa xuân công chúa hương còn ở đây

Em đi hài biếc chân mây

Sao tua diêm dúa đong đầy mắt nâu

Da mơn tóc mượt chưa sầu

Gió tung lên trái tú cầu của vua…



Bước sang Quá độ là lúc nhà thơ quay trở về quê hương, vào lúc thời cuộc biến chuyển quá vũ bão, khiến “tuổi thanh xuân tàn như một giấc mơ”. Từ đấy, tâm hồn nhà thơ có sự chuyển hướng như thi nhân từng tỏ bày trong một bài phỏng vấn:

“Sự thay đổi nhân sinh quan trên lại tác động mạnh đến và làm thơ tôi chuyển sang một hướng sáng tác mới và những chân trời nhân văn rộng lớn hơn. Bởi vì thơ một phần nào là chiếc bóng và tiếng vang của đời sống thi nhân với tư cách một người của hoàn cảnh và của thời đại…

Cuộc đảo lộn nếp sống một cách mãnh liệt và ghê gớm cũng có khía cạnh tích cực của nó cho thơ tôi. Tôi tự cảm thấy không thể cứ tiếp tục giam hẹp thơ mình vào trong khuôn hạn của một cái tôi lãng mạn thuở trước với những biểu tượng nào là căn gác trọ vắt lưng trời ở Xóm Học Paris, nào là chiếc ghế đá vườn Lục Xâm, nào là công trường lá đổ trước một quán nhỏ hẹn hò trên tả ngạn sông Seine, hay một sân ga đèn vàng một chiều đông tiễn em về xứ mẹ. Những dấu ấn này dù có đậm đà đến đâu chăng nữa thì cũng đã sống xong đời sống hữu dụng của chúng rồi. Cõi thơ của tôi bây giờ mở về những chân trời bát ngát hơn của đất nước, vũ trụ và lịch sử:”



Đừng nên quên Cung Trầm Tưởng vốn mang truyền thống Nho gia khoa bảng, tuy được giáo dục theo Âu Mỹ, ông vẫn thường băn khoăn về chí làm trai. Có sự giằng co nội tâm, một hướng về nghệ thuật, một chiều là nhiệm vụ kẻ sĩ trước vận nước chông chênh, trong một hoàn cảnh đất nước phân ly và chiến tranh lại ló dạng kể từ 1960:



Tuổi ba mươi phiến đá chồng lệch vai

Nửa đeo thơ, nửa thồ đời

Một tâm hồn loạn hai người đo găng
Say đòn còn lắm hung hăng

Kẻng thua dứt cuộc, gã nằm trọng thương

Sớm sau hao hụt lên đường

Ôm nguyên cái vực khó lường trong ta

Đêm về thành phố tha ma

Giới nghiêm tiếng súng từ xa vọng về.



Cũng cần nhấn mạnh, phần Quá độ ra đời vào lúc nhà thơ trở về Việt Nam khoác chinh y, thời điểm này nhà thơ vừa là kẻ dấn thân vừa là chứng nhân của cuộc chiến. Con người vốn đa tình, đa cảm xúc, dễ bén nhạy với những biến cố đầy máu lửa và nước mắt diễn ra chung quanh mình. Lãng mạn trong thơ giờ đây thể hiện dưới hình thức buồn sầu day dứt, bằng hoài nghi vây quanh, với những dấu hỏi mà chỉ có lời giải đáp chủ quan. Trong Đêm sinh nhật 1961, ông viết:



Mưa rơi đêm lạnh Sài gòn.

Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi?

Mưa hay trời cũng thế thôi!

Đời nay biển lạnh, mai bồi đất hoang.

Hồn tu kín xứ đa mang

Chóng hao thân thể, sớm vàng lượng xuân.

Niềm tin tay trắng cơ bần

Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa…



Đây cũng là giai đoạn ông viết bài For Rent với những câu thấm thía, đượm ý mỉa mai xã hội có phần băng hoại vì chiến tranh và kim tiền:



Sống là một thứ đi buôn

Mang thân bán vốn, còn hồn cho thuê.



Và đây cũng là thời gian bài Việt Nam 1968 ra đời với hình ảnh chiến tranh tàn khốc:

Mới đêm nào con vòi khóc với mẹ cha

Sớm hôm sau pháo rót chết cả nhà

Núi đứng câm, sông cũng không ngùi nước mắt!



Gây xúc động tới tâm can nhà thơ:

Sao mắt tôi còn ấm lệ

Hay tôi khóc vì đứng nghe

Rồi thấy mình không ngoại cuộc

Đời reo lên như một giác đấu trường



Để rồi con người tình cảm ấy cảm thấy chưa lúc nào cô đơn và bi quan như thế:

Người sang người bằng những cái nhìn nứa nhọn

Rào đời cao như một chiến ấp

Với mỗi nửa đêm linh hồn kẹt đạn

Dõi mắt chờ mà không thấy hỏa châu



Không thấy ánh sáng dù chỉ là ánh hỏa châu mau tàn mà chỉ thấy ám ảnh chết chóc và tuyệt vọng:

Nếu ngày mai cam phận tôi lên đường

Rồi bị hút vào từ trường phía trước

Viên đạn nào vô giác xoáy tim tôi

Xin các người đừng trống kèn ầm ĩ

Đừng đọc điếu văn, trương cờ xí

Bởi sinh thời thường tránh chốn lao xao

Tôi muốn được chết âm thầm và thất tích

Giữa vô danh

Một vết xước nhợt nhòa

Trên vô tình lịch sử


Ngày nay, vào lúc “lưng chừng cuộc đời” (Nói theo kiểu Dantes: Nel mezzo del cammin di nostra vita), Cung Trầm Tưởng đã nhìn lại những sáng tác đầu đời và tìm thấy ở đó có dự “dàn trải triền định”:

“Sóng đầu dòng, Tình ca và Quá độ là bộ ba ghi những dấu chân lên đường còn giữ được của một hành trình thơ mà mục đích tiên khởi là chỉ để tiêu dao, cám cảnh và tỏ tình bông lông. Nhưng nay, sáu mươi năm sau, khi cuộc chơi sắp tàn, ngoảnh lại và giật mình thấy hành trình này lại là một dàn trải tiền định có lớp lang của một xâu chuỗi những liên lụy hệ trọng và phức tạp hơn thế nhiều. Nói rõ hơn, đây là một tập hợp ngôn ngữ có tính thống nhất cao chứ không phải là một lắp ráp của những con chữ ô hợp hay lạ giống với nhau. Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, một hướng đi và một đích tới đã ‘vô tình’ được vạch sẵn và làm nên một bản sắc”.



Phần thơ mộng nhất nằm trong tập thơ là Sóng đầu dòng, Tình ca và Quá độ nhưng phần mang chất lượng nặng và thâm thúy hơn cả, hy vọng giúp tác phẩm vượt qua thử thách của thời gian chính là Lời viết hai tay và Bài ca níu quan tài.

Khi miền Nam rơi vào vòng luân hãm, cuộc đổi thay bất ngờ và lớn nhất trong lịch sử đất nước còn ghê gớm hơn thời Lê mạt-Nguyễn sơ. Nhà thơ nếm trải cơn gió bụi và tình cảm phóng ngoại bằng cơn phẫn nộ và thơ ca là phương tiện để thể hiện cơn bất bình này như thi nhân đã viết: “Làm thơ là để giải phóng ẩn ức, tìm một quân bình phiếm định trong một bất trắc triền miên. Ức chế càng tích lũy, càng o ép, anh ách như chửa trâu, sự lâm bồn càng khó khăn, đau đớn toạc xé, và thơ ra đời như một chiến thắng hân hoan”.

Tác giả giải thích tại sao lại có Lời viết hai tay như sau: “Khi hai tay bị còng khóa số 8, khi hai chân bị cùm gông thiết diệp, khi thân xác bị trói gù lưng tôm, cái tâm người thơ cũng trực tiếp bị xúc phạm, nhức nhối và khốn khổ. Tâm chập vào thể, ra một nhất nguyên. Ngườt thơ tù biệt giam-tù của tù-lấy cái đầu viết hộ cho hai tay bị còng”.

Thơ là sản phẩm của một trái tim nổi giận trào ra bằng lời, bằng tiếng thét gào thống thiết.

Nhiều tác phẩm của ông từ đó ngổn ngang trăm mối vì thơ của ông không phải do lý trí hướng dẫn cấu thành mà do tình cảm từ trái tim bị trấn áp tràn đầy mà trào ra, nó thể hiện bằng ngôn ngữ sắc như dao, nhọn như chông, cứng như thép, đôi khi chua chát và khinh bạc chứ không phải bằng từ hoa chải chuốt. Cảm xúc lại diễn tả không theo trật tự bình thường, có thể là những tiếng nấc, tiếng than tiếng hờn căm, tiếng khóc chen lẫn, nên kẻ đồng cảm dễ dàng thở dài, nhỏ lệ còn người chưa từng nếm trải nỗi khổ đau khó mà thấu hiểu. Ở đây lại thấy rõ con người tình cảm của Cung Trầm Tưởng học được đạo lý “uy vũ bất năng khuất” và tình cảm cô đọng lại thành một khối sắt thép, tạo thành hình ảnh cây vầu trong một bài thơ Biểu tượng khá điển hình làm người ta nhớ tới cây thông của Nguyễn Công Trứ.



Lòng ta đứng vững như vầu,

Thân cao lóng thẳng giữa bầu trời xanh…

Vầu đanh như thép sáng ngời
Nắng mưa thì cũng trọn đời đứng ngay.



Tình cảm dâng trào với những nét phác họa sự thực của địa ngục sống, nơi người tù chiến bại phải nếm trải:



Áo tù thẫm máu đôi vai

Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa

Ngó tay bỗng thấy già nua

Cứa êm thân xác mấy mùa thu qua

Môi cằn, má hóp thịt da

Ngô vơi miệng chén, canh pha nước bùn…



Trong đói lạnh và khổ đau, nỗi buồn càng thấm thía khi nhớ người thân:

Đêm nằm ruột rỗng, vai run

Đầu kê tiếng suối, chân đùn bóng đêm

Mỗi ngày hận tủi chồng thêm
Thương con, nhớ vợ đến mềm ruột gan!



Trong tận cùng của đày đọa, những vần thơ thương bạn đồng cảnh ngộ và nghĩa bạn bè dâng cao như trong bài Đèo này tuyến trước và Vạn vạn lý. Đặc biệt là những vần ca ngợi tình mẫu tử (trong bài Bóng mẹ chiều thu) nghĩa phu thê và những gương hồng nhan trong cuộc phong trần vì chồng mà truân chuyên hay thủy chung với chồng đến trọn đời như “hàng triệu nàng Tô thị đời nay”.

Tiếp đó, thêm một tấn bi kịch trước mắt ta có tên là Bài ca níu quan tài. Tên tác phẩm này nghe lạ tai nếu không được tác giả giảng giải: “Nhan đề Bài ca níu quan tài được chuyển sát nghĩa từ vãn ca, tức hát níu quan tài. Vãn còn có nghĩa là một điệu hát buồn dùng để khóc than. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba động tác khóc, hát và níu đã cung cấp cho người khóc Việt Nam một khả năng lột tả tối ưu nỗi đau đớn ê chề, bề bộn của cảnh sinh ly tử biệt”.

Từ mang tình cảm riêng tư để nhớ Michele, để tiễn em, để trải hồn với cái buồn mùa thu Paris... Nhà thơ bị quay cuồng trong cơn lốc lịch sử bạo tàn và chứng kiến biết bao bi hùng kịch xảy ra chung quanh nên ông quên cái riêng mà dàn trải tình mình ra cái chung và cất tiếng bi ai đầy chất Việt.

Trong văn học Việt Nam có bài vãn nổi tiếng là Ai tư vãn. Bài vãn này là tiếng khóc của công chúa Lê Ngọc Hân khóc vua Quang Trung. Còn Bài ca níu quan tài là tiếng kêu thấu trời, thấu đất của Cung Trầm Tưởng khóc cho toàn thể dân tộc và đất nước trong buổi trầm luân. Tác phẩm vì thế có thể gọi là Tiếng khóc Việt Nam, một tiếng khóc dài như bất tận vừa có giá trị một cáo trạng, vừa là kể lể bao nỗi oan khiên với chốn cao xanh và với toàn thể nhân loại. Thể lục bát vốn như những giọt tranh đều đều rơi từ mái hiên, lục bát trong bài Bài ca níu quan tài là những giọt lệ máu, tuôn tràn, rồi cô đọng lại bằng lời uất nghẹn làm điếng lòng người. Ta hãy thử đọc khúc 19. Khúc cuối cùng trong 19 khúc đoạn trường gợi người ta nhớ tới Chiêu hồn ca của Nguyễn Du và như nghe lại bản Con đò đưa xác:



Kìm, cò, sáo, nhị thê lương

Cỗ xe khổ ải, con đường mồ côi

Quan lay, nến lắc bồi hồi

Hồn oan hồn cũng trối lời biệt ly

Sống mòn xiềng xích âm ty

Chết đu đưa chiếu cáng về đoàn viên

Xác thân trả bến ưu phiền

Cùng cây đa đứng ngó thuyền qua sông

Thuyền về hụt hẫng mênh mông

Lá sông lẫn bóng mây không bồng bềnh

Tròng trành nối với tròng trành

Thuyền về tắt tiếng hò mình gọi ta

Mình về bảng lảng mù sa

Mình đi mình để tha ma lại đời

Sáo rên rên ríu chân người

Cò rền rĩ quặn rối bời trần ai

Mẹ xưa khóc níu quan tài

Nàng giờ lệ đổ nối dài trường giang…



Ngày “Ta về” như cách nói của Tô Thùy Yên, tâm sự của Cung Trầm Tưởng dàn trải trong nhiều phần thi tập Những dấu chân ngang trên một triền phiếm định (triền tư lự, triền ái dấu, triền ngữ sự, triền mộng thức). Nghe cái tên của tập thơ cũng thấy nỗi bâng khuâng và hoài nghi của thi nhân sau những thăng trầm gây hao mòn thân xác và tâm tư:



Lóc cóc điêu tàn gõ vó câu

Thiu thiu vong phế bạc phơ đầu

Hư vô hớn hở dòm ông lão

Khập khiễng đi vào nấm cỏ khâu…



Trong Chuyến chót ta lại gặp những vần lục bát trào chất thơ, chất buồn, nhưng tình còn đậm, niềm tự hào còn mang, phảng phất tâm trạng của một kẻ từ cõi chết trở về, để lại những dấu chân cuối đời nơi quê hương:



Tôi đi mua nắng huy hoàng

Về nung thành ngọc thành vàng cho tim
Lửa đời luyện thép rèn kim

Thép già biết chảy khi chìm mến thương

Hãy đi nao nức dặm đường
Trước khi về nghỉ chiếc giường âm u

Bản sắc tình cảm của thi nhân cũng được ghi lại bằng những dấu chân nhưng lần này là Những dấu chân ngang trên một triền ái dấu. Ở đây tình yêu lại có dịp hồi sinhở mức cao hơn, rộng hơn, thoáng hơn với Một địa lý cho tình yêu, Mắt hát, Thiên đàng cần lại hai người yêu... Cũng ở đây chúng ta lại gặp những vần lục bát mặn mà triết lý và đạo lý về tình yêu trong bài Giao khúc:


Còn gì sau phút yêu nhau

Trăm năm dây nghĩa quấn vào đời đôi
Trao đi da diết bồi hồi

Đón về một ý nghĩa đời rộng hơn…

Tình nồng nghĩa mặn hoan trào

Yêu nhau thẩm thấu hồn vào với nhau.



Cũng ở đây nhà thơ viết nhiều bài tình-luận đặc biệt nào là tình hãi, tình đắm, tình vẫn, tình điếu. Xem thế mới thấy nhà thơ có trí tưởng tượng vô cùng phong phú chẳng khác Phùng Mộng Long ngày xưa viết bộ Tình sử.

Làm sao quên, thơ tình cảm dịu dàng buổi đầu của thi sĩ trở lại nhưng với nỗi u hoài và thất vọng khi cất bước trên đường xưa lối cũ với bài Lác đác những giọt sương đêm. Bà huyện Thanh Quan chỉ có nỗi bâng khuâng trong Thăng Long thành hoài cổ, còn Cung Trầm Tưởng trải nỗi trầm thống khi trở lại phố phường Sài gòn:



Mới đây thôi rực nắng vàng

Nay sương u ám trăm đường đìu hiu
Mây chưa tỏ tận ráng điều

Gót đen thoăn thoắt dập dìu bước qua…

Long đong nào chỉ có người

Đá vô tri cũng khóc cười bể dâu

Lỗ đen dấu hỏi bạc đầu

Vì chưa vẽ nổi sắc màu thiên thu



Lại một bài lục bát rất hay vì mới lạ về hình thức, đẹp về hình ảnh, tạo cảm xúc gần gũi với những người từng ngâm nga Hoàng hạc lâu đời Đường hoặc vần điệu bảy chữ Tràng giang thời tiền chiến:



Chiều đầu sông ngóng cuối sông

Quê ai một rẻo lau bồng lẻ loi

Nước nguồn cuốn lá nguồn trôi

Thừng côi cút buộc thuyền côi cút bờ

Bơ vơ này níu bơ vơ

Kìa mây núi vấn mây chờ nẻo mây

Nhớ khôn nguôi với dặm dài
Ngoảnh về lũng nhớ nhớ đầy nhớ thương…



Những dấu chân ngang trên một triền mộng thức hay giấc ngủ tám mộng bản: Họa hiếm trong thơ ca Việt Nam mới có một khúc trường thiên về ngủ. Ngủ không phải chỉ là một hành vi sinh lý bình thường mà là một biểu lộ của bậc ẩn giả hay bậc hiền triết. Trước đây người ta thường nói tới bài ca tụng ngủ của Na sơn tiều tử đời Trần mạt, sau này nhiều người nhắc tới thái độ chán nản của nhà nho ái quốc Nguyễn Đình Chiểu sống trong giai đoạn Lục tỉnh Nam kỳ rơi vào tay ngoại xâm (1862-1867):



Khỏe mắt Hy di đời ngũ quý

Mỏi lòng Gia cát buổi tam phân

Công danh chi nữa ăn rồi ngủ
Mặc lượng cao dày sử với dân



Cung Trầm Tưởng với giấc ngủ chập chờn vì thân xác rã rời kể từ còn trong nhà tù Hoàng liên sơn:

Ngủ chập chờn miền trượt trơn

Cái lênh đênh dính nhớt nhờn lưng vai
Ngủ la đà bờ cỏ gai

Gió day dứt thổi rách dài hoang liêu…



Cho tới giấc ngủ ở nơi tạm dung:

Ngủ hồ thiêm thiếp hơi bay
Rét trong phong cảnh ra ngoài hoang liêu

Ngủ khờ Mễ phố thiu thiu

Phong du lẫn cẫn khói chiều phù du.



Tuy nhiên, giấc ngủ luôn luôn xáo trộn giữa thực tại và dĩ vãng, giữa hoan vui và đau khổ, giữa an lành và bão táp, đó chính là tâm trạng của một người đa cảm sống sót từ cơn thử lửa, qua cơn gió bụi, còn vương lại những triệu chứng rối loạn tâm lý hậu chấn động (PTSD) không bao giờ nguôi.

Những ám ảnh của chuỗi ngày đen tối mà thi nhân đã sống, nỗi hận không tan vì lý tưởng bị chà đạp, quyền sống bị tước bỏ và lòng khắc khoải trước tình trạng hưng vong của đất nước, nhà thơ lại có dịp trình bày trong phần Tâm sử thi (Thi bá, con tắc kè và bà góa phụ). Tâm sử thi phải chăng là tóm lược hành trình tâm lý của thi nhân từ lúc dùng vần điệu phô bày thổn thức của con tim nhân ái, trải qua đắng cay của thế cuộc, bi ai và sắt máu của thời đại, cho tới lúc viết bản chiêu hồn tử chinh nhân?

Nếu thi ca trong Sóng đầu dòng là dòng êm đềm, thơ thuần màu tươi xanh thì tác phẩm trong phần cuối tuyển tập Mỗi dặm đường một nghìn vần cho thơ và Sáng ký về người tình đầu là nguồn nước khi bình thản, khi cuồng lan, chất tươi xanh bên cạnh chất khô cứng của thân cây vầu, tất cả quyện với nhau, tình và ý, xúc cảm và suy tư, cá nhân và thời đại tạo thành một tổng thể nghệ thuật Cung Trầm Tưởng.

Cuối tập, tình cảm chuyểu thành tiếng hoan ca nên hơi thơ có tính chất hào hùng, khi khoan khi nhặt, ca tụng sinh lực của vạn vật sau cơn hồng thủy, ở đấy có cái đẹp hùng tráng và sáng tạo (để ý tới những từ ngữ như tạc với vết đục, đẽo mạnh, sắc và khéo léo của một điêu khắc gia tài ba):



Cỏ sống sót sau khốc tàn trận lụt

Đá trơn tru tí tách giọt sương ngời

Nắng hào cuồng thẳng góc ném ban mai

Đâm ngập lút đáy hồ chàm thẳm hút…

Bong bóng vỡ tím tung trời mẩy hạt

Mưa hồng tạnh ngớt, bạch hạc bay ra

Sông la đà gạo đỏ xoáy phù sa…



Sau đó tâm lại bình, khí lại hòa, mộng đời tràn lan, niềm tin bừng sáng trong phần kết từ như vẽ:

Vượn ríu rít gọi nhau chờ nắng tới

Trời ngoài từng bước ló dạng hừng đông

Khí ngào ngạt hương thơm, đời xởi lởi

Nức nô theo phơi phới ánh trời hồng.

Suối dậy sớm ngón tay cong gõ cửa

Đánh thức rừng và nhắc nhở chim muông

Xù lông tơ, róng cổ hót ngông cuồng

Lá trút móc long lanh bừng giấc cỏ.

Hồng cất cánh từ chon von đỉnh gió

Vỗ dạt dào một chuyến viễn du xanh

Về chốn hứa lương ngon và trái ngọt

Những cơn mưa ấm nhú mộng đời lành…



Đọc thơ Cung Trầm Tưởng người ta liên tưởng tới hình ảnh “Một con nhện nhẫn nại thầm lặng” (A noiseless patient spider) trong thơ của nhà thơ Walt Whitman. Thi nhân được ví như con nhện kiên nhẫn âm thầm giăng tơ. Nhà thơ có khác chi con nhện, giải tỏa khát vọng sáng tác, dệt những vần hoa gấm để làm đẹp cuộc đời và những khúc đoạn trường vì đời. Từ đó thi nhân đã bắc nhịp cầu với thế giới bên ngoài và người đồng điệu. Đất nước ta lắm đổi thay, dân tộc ta lắm truân chuyên, người Việt chẳng mấy ai không có một trời tâm sự, nên thi nhân gặp bước khảm kha bất bình như Cung Trầm Tưởng càng ngày càng được nhiều người cảm thông là điều dễ hiểu.

Hoàng Yên Lưu
___________________


Chủ Nhật 08 tháng 09 năm 2013, tác giả và tập thơ “Cung Trầm Tưởng, Một Hành Trình Thơ” do nhà xuất bản Tiếng Quê hương phát hành sẽ ra mắt người yêu thơ Toronto lúc 1 giờ chiều tại hội trường thư viện Noel Ryan Auditorium, Living Arts Centre, 301 Burnhamthorpe Road West, Mississauga. Thân mời độc giả đến tham dự.
phai  
#2 Đã gửi : 15/09/2013 lúc 09:17:48(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Cung Trầm Tưởng với 60 năm hành trình trong thi ca
UserPostedImage
Cung Trầm Tưởng nổi tiếng với những bài thơ lãng mạn Chưa bao giờ buồn thế (Tiễn em), Mùa thu Paris, vào thập niên 50, và những tình khúc được cố nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc: Bên ni bên nớ, Khoác kín (Chiều đông), Kiếp sau, Về đây.
Sau 60 năm (1948-2008) sống với thi văn, Cung Trầm Tưởng nhìn lại quá khứ, tổng kết cuộc đời của một thi sĩ bằng tuyển tập Cung Trầm Tưởng, một hành trình thơ. Buổi ra mắt thi phẩm này đã được tổ chức hôm Chủ nhật 08 tháng 9 tại hội trường thư viện Noel Ryan Auditorium, 301 Burnhamthorpe Rd. W., Missisauga, với sự hiện diện của hơn 200 đồng hương.
Sau nghi thức khai mạc, B.S Nguyễn Duy Sản, trưởng ban tổ chức, đã ngỏ lời chào mừng và cảm tạ quan khách đã đến tham dự buổi sinh hoạt văn học đã từ lâu thiếu vắng ở Toronto đồng thời giới thiệu sơ lược tiểu sử tác giả.
Tiếp đến, trong phần phát biểu, nhạc sĩ Phan Ni Tấn đã nêu lên nhận định của cá nhân và điểm qua những bài thơ đã đưa Cung Trầm Tưởng có “môt vị trí sáng chói trên nền trời thi ca Việt Nam”.
Dịp này, tác giả, nhà thơ Cung Trầm Tưởng, trong phần trình bày tác phẩm, đã nhắc lại ba sự kiện đáng ghi nhớ trong tiến trình thực hiện tuyển tập.
Xen kẽ chương trình là phần văn nghệ do các ca sĩ địa phương trình diễn, trong đó hầu hết là các bài thơ do tác giả sáng tác được phổ nhạc thành những tình khúc.
Chiều chủ nhật với thơ Cung Trầm Tưởng đã kết thúc vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày bằng tiết mục hợp ca nhạc phẩm Bên kia sông, thơ Nguyễn Ngọc Thạch, nhạc Nguyễn Đức Quang.
Cung Trầm Tưởng, tên thật Cung Thúc Cần, sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ. Tập thơ đầu tay mang tên Sóng đầu dòng (chưa in). Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học trung học tại trường Chasseloup Laubat. Du học Pháp và Hoa Kỳ. Tốt nghiệp Trường Kỹ sư Không quân ở Salon-de-Provence, Cao học Khí tượng tại St. Louis, Hoa Kỳ.
Năm 1958, ông chủ trương tờ Văn nghệ mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành…
Trước ngày miền Nam sụp đổ, ông là cựu Trung tá Không quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975, đi tù Cộng sản 10 năm, bị quản chế 3 năm. Định cư tại Mỹ năm 1993 cho đến nay.
Theo Thời Báo
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 1.133 giây.