Sau khi đánh bại nhà Hồ vào năm Đinh Hợi (1407), nhà Minh cho bắt hầu hết các tôn thất và quan chức trọng yếu của Hồ triều áp giải về Tàu. Phần lớn những thê thiếp, đày tớ của những gia đình nạn nhân này đã bị nhà Minh đem phân phối cho những quan chức, quân lính có công của họ tùy nhu cầu sử dụng. Vua Minh lại lựa những viên quan của Hồ triều còn phong độ như Vương Nhữ Tương, Đồng Ngạn Hú, Nguyễn Quân, Lê Sứ Khải bổ làm Kinh Bắc thị lang, tham chính Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông. Nhưng khi họ đi nhậm chức mới nửa đường, vua Minh cho người đuổi theo giết hết. Những người còn lại vua Minh cho an trí mỗi người một nơi. Chính Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương cũng bị đày ra làm lính thú ở Quảng Tây. Chỉ có Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của Hồ Quí Ly, nguyên là Tả tướng quốc Hồ triều, nhờ có tài sáng chế súng thần sang, một loại vũ khí tối tân đương thời, được cho đoàn tụ với vợ con và được trọng dụng. Nhưng vua Minh không cho Nguyên Trừng giữ họ cũ nữa mà đổi lại họ Lê, trên giấy tờ viết là Lê Trừng. Ban đầu Lê Trừng được bổ làm Chủ Sự ở Binh Trượng cục (1) thuộc Bộ Công. Tuy được vua Minh trọng dụng, Lê Trừng vẫn biết thủ phận. Ông luôn tỏ ra mẫn cán, tận tâm với công việc, ít giao du, không họp bè nhóm bạn bàn chuyện thị phi. Ngày ngày ông đến Bộ Công làm việc, tối lại về nhà nghỉ như một cái máy, ít khi thay đổi.
Vợ của Lê Trừng họ Nguyễn, con gái của An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu. Trước kia Hy Chu đánh nhau với quân Minh thua trận, bị Trương Phụ bắt, Hy Chu mắng chửi Phụ thậm tệ nên Phụ tức giận giết hết cả nhà. Vì chuyện đó nên Nguyễn phu nhân rất căm hận người Minh. Tánh bà cương cường, không ham phú quí, không ưa đua đòi, ít giao thiệp ồn ào, nên rất được chồng nể trọng.
Từ khi Lê Trừng được vua Minh bổ làm quan, Nguyễn phu nhân chỉ giao thiệp độc một người bạn, đó là Cao phu nhân, vợ một vị quan Thị giảng học sĩ làm việc trong Hàn lâm viện. Hai bà đã gặp nhau trong một lần đi lễ tại chùa Phúc Lạc để rồi thân thiết nhau như một mối duyên tiền định. Cao phu nhân lớn tuổi hơn và chức tước của chồng bà cũng cao hơn Lê Trừng nên bà coi Nguyễn phu nhân như một người em. Họ trở thành tâm đầu ý hợp, quí mến nhau, thích trao đổi với nhau những chuyện vui buồn. Họ thường gặp nhau ở chùa Phúc Lạc vào những ngày rằm hay mồng một...
*
Cuối năm Canh Dần (1411), một hôm đi chầu về, Lê Trừng trao cho vợ một gói bọc giấy hồng điều và nói:
– Hôm nay ngày đại triều, không hiểu thánh thượng cao hứng thế nào, ngài khen ngợi ta, thăng cho hai trật, lại còn thưởng phu nhân món quà quí giá này nữa!
Phu nhân hờ hững nói:
– Tướng công làm việc đắc lực thì thánh thượng phải ban thưởng chứ có gì lạ!
Lê Trừng không hài lòng về lời nói của vợ:
– Ta mới được ban thưởng chưa đầy nửa năm, giờ được ban thưởng nữa không lạ sao?
Phu nhân mở gói quà ra xem. Đó là hai cây lụa bích liên, một thứ lụa có sắc biếc óng ánh như ngọc bích, trông rất mát mắt, thuộc loại lụa quí hiếm mà giới khuê các đương thời đều ưa chuộng. Phu nhân hơi bàng hoàng vì cái ân huệ đặc biệt này nằm ngoài sự tưởng tượng của bà. Ai ngờ một vị hoàng đế độc tài, khắc nghiệt như vua Minh cũng biết đoái nghĩ tới niềm vui của thê thiếp một viên hàng thần nhỏ nhoi. Bà nói với giọng xúc động:
– Thánh thượng quả rộng lượng thế này ư? Nhờ tài cán của tướng công mà thiếp cũng được vinh dự lây!
Lê Trừng thấy vợ có sắc vui thì mừng lắm, ông nói:
– Phu nhân thấy đó, lượng thánh bao giờ cũng rộng như biển cả. Những việc không hay xảy ra trước đây đều do lỗi của kẻ dưới gây nên. Từ nay phu nhân hãy quên chuyện cũ đi cho đầu óc được thoải mái!
– Cám ơn tướng công. Đâu phải thiếp muốn nhớ mãi những chuyện đau lòng ấy làm gì, nhưng làm sao quên được đây?
Khi Lê Trừng đã vào triều, phu nhân liền mở gói lụa xem lại. Càng xem bà càng bị thu hút bởi cái vẻ ảo diệu lạ lùng tưởng như nó biến đổi màu sắc qua từng giây. Đúng là lụa ngọc! Trong lúc đang say sưa ngắm lụa, đột nhiên trong đầu phu nhân trỗi lên một mối thắc mắc: chồng ta có công gì mà nhà vua lại ban thưởng trọng hậu thế này nhỉ? Phải, chồng ta vừa mới được ban thưởng chưa đầy nửa năm! Không lẽ hoàng thượng đã quên? Ban thưởng bất thường tất phải có lý do bất thường! Phu nhân bỗng giật mình... Thế rồi phu nhân thẫn thờ chờ đợi chồng về để hỏi cho ra lẽ. Nhưng hôm đó Lê Trừng lại về rất muộn. Ông bước vào nhà với vẻ mặt căng thẳng, lạnh lùng khiến những thắc mắc mà phu nhân đã chuẩn bị hỏi ông trong giây lát tan biến hết. Bà kêu người nhà dọn cơm ra nhưng ông cản lại:
– Khỏi dọn cơm. Khi nào cần ta gọi.
Nói xong, ông vào phòng riêng, đóng cửa lại. Một hồi lâu sau vẫn không thấy động tịnh gì, phu nhân đâm ra lo ngại, bà bèn đến phòng của chồng gõ cửa. Lê Trừng mở cửa cho vợ vào rồi trở lại ghế ngồi với vẻ mặt trầm tư khó hiểu. Phu nhân hỏi:
– Hôm nay tướng công vào triều chắc gặp chuyện gì rắc rối?
– Đúng, thánh thượng bảo ta phải làm một việc rất quan trọng. Ta suy nghĩ mãi vẫn chưa biết tính cách nào cho êm đẹp!
– Tướng công có thể cho thiếp biết việc quan trọng ra sao may ra thiếp có thể giúp chút ý kiến nào chăng?
– Khó lắm! Việc quốc sự, việc đàn ông, phu nhân nghe chỉ thêm nhức đầu chứ chẳng giúp ta được gì đâu!
– Cứ nói cho thiếp nghe đi! Nếu thiếp giúp tướng công được ý kiến nào thì giúp, nếu không giúp được thiếp cũng giữ kín trong lòng chứ tiết lộ với ai mà ngại?
Lê Trừng thở dài rồi kể:
– Hôm nay, lúc ta đang làm việc thì được lệnh vua đòi khẩn cấp. Khi ta đến, thánh thượng đòi ta vào rồi đuổi tả hữu ra ngoài hết. Việc một vị hoàng đế hiển hách gọi một viên quan nhỏ vào gặp riêng là một việc bất thường. Chắc hẳn có chuyện quan trọng! Thánh thượng nghiêm nghị hỏi ta: “Khanh trước ở An Nam có biết Hồ Ngạn Thần là người thế nào không?” Ta hơi ngạc nhiên. Thật tình ta có quen biết Ngạn Thần nhưng từ khi bị bắt về Tàu, ta chẳng còn biết ông ta sống chết ra sao. Hồ Ngạn Thần là người có học nhưng bản chất tầm thường, không khôn lanh, ít hiểu đời! Phải chăng Ngạn Thần đã sang Tàu và nhà vua muốn dùng ông ta vào việc gì? Biết ngài tâm cơ sâu sắc, ta ngại có thể bị liên đới trách nhiệm về sau nên thành thật thưa: “Thần biết, Hồ Ngạn Thần trước kia là đồng môn của thần, sau lại từng làm việc dưới trướng của thần. Ông ta là người giỏi từ chương, đỗ đạt cao, nhưng kiến thức nông cạn, suy nghĩ hời hợt. Bệ hạ nên cẩn thận nếu giao việc cho ông ta”. Thánh thượng cười rộ với vẻ đắc thắng: “Vậy thì việc này khanh có thể làm suôn sẻ, dễ dàng”. Ta ngạc nhiên hỏi lại: “Tâu, bệ hạ sai hạ thần làm việc gì ạ?” Thánh thượng nói: “Vừa rồi bọn giặc cỏ ở Giao Chỉ dối xưng là con cháu họ Trần, tụ họp chòm ong lũ kiến sách nhiễu dân chúng, quấy phá việc trị an nhiều nơi. Nay triều đình đã đánh dẹp gần hết, chỉ còn một số nhỏ rút về hoạt động ở các lộ Tân Bình, Thuận Hóa. Các vùng này rừng núi hiểm trở, bọn giặc đã lợi dụng địa thế, ẩn hiện khó lường, gây nhiều khó khăn cho triều đình. Nay tên thủ lãnh của giặc là Quí Khoáng lại sai viên Hành khiển Hồ Ngạn Thần sang đây cầu phong để xin cai trị các vùng đất ấy. Khanh đã quen biết Ngạn Thần, vậy phiền khanh gặp y, ân cần thăm hỏi thế nào để y thổ lộ tình hình thực tế của giặc để ta có thể tùy cơ ứng xử. Đó là một việc rất cần thiết mà trẫm tin khanh sẽ làm được! Việc thành trẫm sẽ trọng thưởng. Khanh không từ nan chứ?”
Phu nhân nghe nói lộ vẻ hoảng hốt:
– Tướng công đã nhận lời chưa? Thiếp nghĩ tướng công nên tìm cách từ chối việc đó!
– Vua đã muốn thế ta làm sao từ chối? Hiện ta đang nhức đầu vì việc đó.
Phu nhân tỏ ra thông cảm hoàn cảnh của chồng, bà nói:
– Thiếp hiểu lòng tướng công lắm. Tuy chưa biết ông Quí Khoáng thủ lãnh lực lượng chống Minh ấy là ai nhưng thiếp tin chắc đó là một người muốn dành độc lập cho Đại Việt. Việc làm đó đáng hoan nghênh lắm. Tướng công thấy khó nghĩ là phải. Không lẽ một vị cựu Tả tướng quốc của Đại Việt lại cam lòng điều tra tình hình hư thực của lực lượng khởi nghĩa báo cho người Minh biết để người Minh tiêu diệt họ sao? Trong tình thế bị ép buộc, mình chỉ làm qua loa chiếu lệ có được không?
Lê Trừng lại thở dài:
– Kiến thức phu nhân cũng khá đấy! Quí Khoáng chính là cháu nội của vua Nghệ Tôn, con của Trang Định vương Trần Ngạc. Đúng là ông ấy muốn khôi phục cơ nghiệp nhà Trần. Nghe lúc đầu ông ấy đã chiếm giữ gần nửa nước An Nam và đã xưng đế niên hiệu là Trùng Quang. Nhưng hiện tại, thánh thượng cho biết, ông ấy chỉ còn giữ được các lộ Tân Bình, Thuận Hóa. Thật tình ta cũng muốn làm qua loa cho xong chuyện, nhưng sợ không qua mắt thánh thượng nổi, lại mắc phải tội khi quân!
Phu nhân lộ vẻ buồn, hỏi lại:
– Mình nỡ nào giúp người Minh tiêu diệt lực lượng kháng chiến của chính nước cũ của mình ư? Tướng công nên giả ngu ngơ một chút không được sao? Nếu thánh thượng phát giác được điều này, bất quá tướng công bị giáng xuống vài trật là cùng chứ gì! Mà dù thánh thượng có cách chức mình cũng cam chịu thôi. Chứ giúp người Minh để tiêu diệt chính dân tộc mình, chúng ta sẽ để lại danh xấu muôn đời không chịu nổi đâu!
Lê Trừng uể oải nói:
– Ta nào sợ chi việc mất chức tước, ta chỉ sợ...
– Đã không sợ mất chức tước thì tướng công còn sợ cái gì chứ?
– Phu nhân không biết điều ta sợ đâu... Ở Quảng Tây tới nay các vụ nổi loạn vẫn chưa dẹp được. Người của triều đình dù quân hay dân hễ gặp quân phiến loạn là hết mong sống. Ngược lại, triều đình cũng đối xử với quân phiến loạn chẳng khác mấy. Hiện nay triều đình đang dùng chiến thuật “3 diệt” đối với phe phiến loạn: giết sạch không chừa người nào, đốt sạch không chừa chỗ trú ẩn nào, bỏ thuốc độc hết sạch không chừa nguồn nước nào. Như vậy bảo ta không sợ sao được? Liệu những người thân của ta đang bị an trí ở Quảng Tây có qua khỏi vụ dẹp loạn này không? Còn ở An Nam, không khéo người Minh cũng áp dụng chiến thuật “3 diệt” nữa lại càng đau khổ. Nhưng thôi, phu nhân cứ đi ngủ đi! Đầu óc ta đang căng thẳng lắm, ta cần nghỉ ngơi một lát. Ngày mai vào triều ta sẽ tùy cơ ứng biến!
*
Hôm sau, Lê Trừng và Hồ Ngạn Thần gặp nhau ở sân chầu. Tha hương ngộ cố tri, hai người bao xiết vui mừng. Thấy những người cùng đi với mình chưa biết Lê Trừng là ai, Hồ Ngạn Thần giới thiệu:
– Đây là ngài Lê Trừng, tên cũ là Hồ Nguyên Trừng, Tả tướng quốc Hồ triều nước Đại Ngu tức An Nam ngày trước. Ngài hiện giữ chức Chủ Sự ở Binh Trượng cục thuộc Bộ Công. Còn đây là quan Thẩm hình Bùi Nột Ngôn, đang tùng sự trong sứ đoàn An Nam với chức vụ phó sứ...
Sau một hồi hỏi thăm nhau chuyện cũ, Lê Trừng nói với Ngạn Thần:
– Bây giờ vua sắp ra triều, không thể nói chuyện lâu nữa, ngài cứ lo công việc của ngài cho xong. Ngày mai nghỉ chầu chắc ngài rảnh chứ? Tôi muốn mời ngài đến tệ xá uống với tôi một bữa rượu cho thỏa tình hoài vọng. Lâu lắm rồi chúng ta mới có dịp gặp lại nhau! Chúng ta sẽ tha hồ hàn huyên chuyện cũ. Mong ngài không từ chối!
Hồ Ngạn Thần vui vẻ đáp:
– Lê đại nhân đã có ý tốt tôi xin tuân mệnh!
Bùi Nột Ngôn vốn là người am hiểu việc đời, có đầu óc nhận xét nhạy bén, ông nghi ngờ cái thiện chí của Lê Trừng ngay. Thông thường, khi hai nước đang ở trong tình trạng chiến tranh, mọi sự tiếp xúc cá nhân giữa người bên này với bên kia nếu không do chỉ thị của thượng cấp đều có thể bị ghép vào tội thông đồng với ngoại quốc. Lê Trừng đã làm việc cho Minh triều làm sao dám tự tiện tiếp xúc với sứ giả An Nam trong khi hai nước đang đánh nhau? Nhất là trong trường hợp An Nam lại là nước cũ của ông ta! Nhất định việc này là do chủ trương của Minh triều! Bùi Nột Ngôn cũng biết rõ Ngạn Thần là người ruột để ngoài da, ưa khoe sự hiểu biết, có gì tuôn ra nấy, rất dễ bị đối phương khai thác lợi dụng. Nếu để Ngạn Thần đến dự tiệc với Lê Trừng thì thật đáng ngại. Nghĩ thế nên Bùi Nột Ngôn nhắc khéo:
– Lê đại nhân đã nặng tình lưu luyến, quan chánh sứ muốn cùng vui với ngài tôi không dám có ý kiến. Nhưng quan chánh sứ cũng nên cẩn thận một tí để tránh sự hiềm nghi có thể gây rắc rối cho Lê đại nhân và cho chính cả chúng ta nữa!
Hồ Ngạn Thần vô tư chẳng để ý câu nói ấy, nhưng Lê Trừng biết ngay Bùi Nột Ngôn đã cảnh giác về bữa tiệc rượu do ông mời, ông giải thích:
– Xin Bùi tiên sinh hiểu cho, quan Hành khiển với tôi là chỗ thân tình cũ, không lẽ gặp nhau lại làm ngơ? Hôm qua vào chầu gặp hồi thánh thượng đang vui vẻ, ngài có hỏi đến quan Hành khiển. Tôi cũng thành thật trình bày với ngài về mối liên hệ cũ giữa chúng tôi. Ngài nói: “Như vậy khanh cũng nên lấy tình cố nhân mà cư xử với y cho trọn đạo bằng hữu và cũng để giữ hòa khí giữa hai nước”. Thế rồi ngài gọi nội giám đem cho tôi một hũ rượu mà nói: “Ban cho khanh để đãi cố nhân đấy!” Tôi nghĩ đó là ý tốt của đức kim thượng nên mới dám mời quan Hành khiển uống rượu đấy chứ!
Lê Trừng nói chưa hết lời thì tiếng loa báo “Hoàng thượng giáng lâm” đã vang lên. Ai nấy đều vội vã trở về vị trí của mình. Bùi Nột Ngôn cảm thấy bồn chồn trong dạ, ông lẩm bẩm: “Đây chắc là một tuồng dàn dựng để đưa Hồ Ngạn Thần vào bẫy rồi! Biết làm sao bây giờ?”
Khi trở về quán dịch, Bùi Nột Ngôn nói riêng với Hồ Ngạn Thần:
– Lê Trừng tuy là cựu Tả tướng quốc nước ta nhưng nay y đã chịu làm việc cho người Minh, lòng dạ của y lúc này mình không thể đoán được. Khi uống rượu với Lê Trừng ông phải hết sức cẩn thận mới xong. Nếu Lê Trừng có hỏi đến vấn đề bố trí quốc phòng, nhân sự mạnh yếu, tinh thần trên dưới ra sao, ông phải tránh đi đừng cho y biết.
Hồ Ngạn Thần nghe dặn có vẻ không bằng lòng:
– Sao ông coi thường tôi đến thế? Nhưng dù sao lo xa thì cũng tốt, xin cám ơn ông! Gặp Lê Trừng tôi sẽ chỉ nói chuyện tình cũ nghĩa xưa mà thôi, ông cứ yên chí!
– Tôi chỉ ngại khi có chút rượu trong người mình tự kiểm soát không nổi vô tình tiết lộ điều gì có
thể nguy hại cho quốc gia nên dặn chừng vậy thôi. Xin ông chớ buồn!
Hôm ấy Lê Trừng đối ẩm với Hồ Ngạn Thần tại tư dinh. Mấy thị nữ của Lê Trừng lo việc phục dịch rất chu đáo. Lê Trừng vừa ân cần mời mọc Ngạn Thần vừa nhắc lại những kỷ niệm xa xưa giữa hai người. Uống một hồi cả hai người đều ngà ngà. Được cố nhân đối đãi mặn nồng như vậy Ngạn Thần xúc động lắm. Với giọng lè nhè, ông cảm thán:
– Thú thật với cố nhân, hai ba năm nay tôi mới uống được một bữa thỏa thuê như thế này!
Lê Trừng tỏ vẻ ngạc nhiên, cũng với giọng lè nhè, hỏi lại:
– Cố nhân nói như An Nam thiếu rượu thịt không bằng?
– Tôi nói thật đấy chứ! Đức vua cũng còn nhịn thèm nữa huống chi hạng tôi!
– Cố nhân nói gì mà tệ vậy? Lời cố nhân khó mà tin được!
– Ông không tin ư? Hiện nay khu vực đồng bằng trong nước người Minh chiếm hết cả rồi! Quân An Nam chỉ còn giữ được mấy vùng rừng núi, thiếu lương thực, quân sĩ bữa no bữa đói, bệnh tật liên miên, vua nỡ lòng nào mà rượu với thịt?
– Tình hình bi đát đến vậy à? Thế sức khỏe đức vua ra sao?
– Tội nghiệp, tất nhiên là đức vua ăn không ngon ngủ không yên! Trông ngài gầy gò lắm!
– Làm vua thời loạn cũng cay đắng lắm nhỉ! Việc này tôi hiểu lắm vì gia đình tôi cũng đã trải qua! Thế các quan văn tướng võ chung quanh ngài thế nào?
– Về các văn quan, trong hoàn cảnh loạn lạc này đâu có thi thố tài năng được! Còn các tướng võ như Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy lại không ăn ý nhau, thiếu đoàn kết, hành động không thống nhất! Quân sĩ thì đói rách quá cứ đào ngũ hao mòn dần! Vua Trùng Quang cũng điên đầu vì vấn đề này đấy!
– Quan quân An Nam trong tình trạng đó mà các tướng giỏi của Minh triều như Trương Phụ, Mộc Thạnh không đánh đổ nổi kể ra vua Trùng Quang cũng giỏi lắm đấy chứ!
– Chẳng qua cũng nhờ may mắn thôi! Người Minh họ sợ bóng sợ gió trước các vùng Tân Bình, Thuận Hóa địa thế quá ư hiểm trở, xa lạ, họ đâu biết thực lực quân An Nam mạnh yếu thế nào. Nếu họ bạo gan cứ tấn công ào vào quân An Nam làm sao giữ nổi?
– Hóa ra tình hình hiện tại của nhà Trần khốn đốn đến vậy!
– Đúng thế, chuyến này nếu Ngạn Thần tôi cầu phong mà thành công, quân Minh nghỉ tấn công một vài năm nữa thì may ra lực lượng của nhà Trần mới hồi phục được!
Cuộc nói chuyện giữa hai người cứ thế tiếp tục mãi cho đến khi Hồ Ngạn Thần say gục xuống bàn tiệc. Một thị nữ trong toán phục vụ bữa tiệc đã trình lại khá đầy đủ nội dung cuộc nói chuyện giữa Lê Trừng và quan sứ Hồ Ngạn Thần với phu nhân. Phu nhân nghe xong lặng người đi một hồi, sau đó bà than dài:
– Đáng thương thay cho dân Đại Việt! Nhà Trần quả đã hết thời nên mới giao phó việc đi sứ cầu phong cho một anh hủ nho lòng dạ tối tăm, coi miếng ăn hớp rượu cao như núi Thái Sơn mà quên lo nghĩ đến sự an nguy của tổ quốc! Biết làm thế nào bây giờ?
Thế rồi bà vào phòng nghỉ của Lê Trừng để săn sóc cho ông. Khi Lê Trừng thức dậy, thấy vợ đang ngồi bên cạnh, ông hỏi:
– Bà cho người lo chăm sóc ông Ngạn Thần cẩn thận chứ! Ông ấy đã tỉnh lại chưa?
Phu nhân lắc đầu có vẻ không vui:
– Thị nữ vừa cho biết ông ta vẫn còn ngủ li bì! Thật tội nghiệp cho ông vua Trùng Quang đã quá tin tưởng vào một bề tôi như thế! Ông ta ham uống rượu hơn là nghĩ tới sứ mạng được vua Trùng Quang giao phó!
Lê Trừng nghe vợ trách Ngạn Thần cũng đâm ra ngượng ngùng. Ông nghĩ phu nhân đã thấu hiểu việc làm của mình, bèn chống chế:
– Mỗi người mang một tâm trạng khác nhau, ai hiểu ai được! Ông ấy làm nhiệm vụ sứ giả cầu phong cho vua An Nam đã được thánh thượng hứa sẽ phong, đó là một sự thành công lớn, lại gặp cố nhân nữa, ông ấy uống vài chén cho vui đâu có sao?
– Vui vì gặp lại bạn cố tri sao tướng công chỉ uống cầm chừng trong khi ông Ngạn Thần lại uống say đến thế? Nếu tướng công cũng say như ông Ngạn Thần thì thiếp đâu dám trách ông ấy? Thiếp rất mong tướng công suy nghĩ thật kỹ trước việc này. Nếu có việc gì xảy ra cho ông Ngạn Thần thì việc đó cũng có thể xảy ra cho nhà ta đấy!
Lê Trừng nghe giọng có vẻ đe dọa của vợ cũng bực mình, ông nói:
– Phu nhân sao cứ giữ cái thành kiến cổ lỗ của mình vậy? Thật tình thánh thượng cũng chỉ muốn các mối loạn được sớm chấm dứt để dân An Nam bớt khổ thôi! Còn việc của ta, phải hiểu đó là một sứ mạng! Thánh thượng là người nghiêm khắc, quyết liệt, ta không muốn làm trái ý người! Hơn nữa, ta còn phải nghĩ đến đạo hiếu. Cha già ta, chú ta, em ta đang bị đày làm lính thú ở Quảng Tây, con cháu ta đang bị phân tán làm lao nô mỗi người một ngả. Mỗi lần nhớ tới họ ta không khỏi rơi nước mắt! Ta cũng muốn đời họ đỡ khổ hơn một chút chứ!
– Tướng công nghĩ tới cha già và anh em con cháu của mình tuy hợp đạo nhưng tướng công cũng nên nghĩ tới hàng vạn dân Đại Việt đang đau khổ dưới gót giày của quân xâm lăng chứ! Chính gia đình ta phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của Đại Việt trước người Minh chứ ai? Ai gây ra thảm họa cho dân Đại Việt ngày nay? Người Minh thật lòng muốn cho dân Đại Việt bớt khổ ư? Thế sao họ đặt thêm không biết bao nhiêu thứ thuế để bóc lột đến nỗi nông dân, thợ thuyền Đại Việt giờ đây chỉ còn biết sống cầm hơi? Sao họ bắt dân ta lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, họ bắt dân ta xuống biển mò ngọc trai đem về Tàu? Bao nhiêu dân Đại Việt đã phải chết vì sốt rét, vì đói lạnh, vì thú dữ, vì sóng bão trong khi bị bắt làm những việc đó tướng công biết không? Họ vơ vét hết nhân tài của Đại Việt, từ những nhà sư đạo cao đức trọng, những nhà văn học đến các loại thợ khéo, từ nhà thiên văn địa lý đến nhà bói toán, thậm chí cả những thiếu niên tuấn mỹ họ cũng bắt đem “thiến” đi đưa hết về Tàu để dùng, thế là lo cho dân ta bớt khổ ư? Họ lục tìm bao nhiêu sách vở quí giá do người Việt trước tác đem đốt hoặc chuyển về Tàu hết thế mà họ dám rêu rao là bảo vệ, khai hóa cho dân ta? Bây giờ tướng công lại tin họ, đành lòng tiếp tay cho họ làm những việc ác hại đối với dân Đại Việt như thế ư?
Lê Trừng lặng người đi một hồi. Lát sau ông gượng nói:
– Phu nhân không nên ôm mãi cái thành kiến về người Minh như thế. Dù sao hiện giờ ta cũng đang ở trong vòng kiềm tỏa của họ, sự an nguy của chúng ta nằm cả trong tay họ, ta còn biết làm sao hơn? Vì sự sống còn của dòng tộc ta, vì tương lai của con cháu, ta cứ tạm nhẫn nhục chiều ý họ đã rồi tính sau! Phu nhân đừng làm ta rối ruột thêm nữa!
Phu nhân có vẻ chán nản, bà nói với giọng đe dọa:
– Nếu tướng công muốn sống như thế mặc ý. Còn thiếp, cha mẹ anh em thiếp đều bị người Minh giết hại, thiếp biết nỗi đau khổ người Minh đã gieo rắc cho dân ta như thế nào, thiếp sẽ tìm cách tự xử trí!
Lê Trừng lại im lặng một lát rồi dịu giọng:
– Được rồi! Ta hứa sẽ tìm cách làm sao cho êm đẹp mọi bề!
Bấy giờ phu nhân mới nở một nụ cười nhạt:
– Cám ơn tướng công! Thiếp mong tướng công giữ lời!
Hai hôm sau Hồ Ngạn Thần và Bùi Nột Ngôn lại vào chầu vua Minh. Vua Minh ân cần vỗ về ủy lạo sứ thần, ban thưởng vàng bạc rất nhiều. Ngài cũng hạ chiếu phong cho vua Trùng Quang làm Giao Chỉ Bố chính sứ, cho Ngạn Thần làm Tri phủ Nghệ An. Xong việc, sứ đoàn An Nam vui vẻ bái tạ vua Minh xin trở về nước phục mệnh.
Tiễn đưa Ngạn Thần xong, Lê Trừng trở về dinh với bao nỗi hân hoan, ông nói với vợ:
– Phu nhân thấy đó, mọi chuyện rốt cục đều tốt đẹp cả. Lần đi sứ này của Hồ Ngạn Thần đã đem lại những thành quả hết sức to lớn cho An Nam. Vua Trùng Quang đã được thánh thượng thừa nhận. Dân An Nam từ nay sẽ bớt khổ. Có gì để phu nhân phải bứt rứt đâu?
Vẻ mặt phu nhân trở nên tươi tắn, bà nói:
– Thật vậy sao? Thế thì may cho dân Đại Việt ta lắm! Thiếp xin lỗi trước đây vì quá nóng lòng trước cảnh khổ mà dân Đại Việt phải chịu nên đã có những lời làm tướng công mất vui. Xin tướng công bỏ qua những lỗi lầm ấy.
– Không đâu! Phu nhân là người có lòng với cố quốc, không có gì đáng phiền trách. Tuy nhiên, nhập gia tùy tục, mình cũng nên nhẫn nhịn một chút. Ta khuyên phu nhân từ nay nên gọi tên nước cũ là An Nam như người Minh chứ đừng dùng cái tên Đại Việt nữa nghe dễ mất lòng lắm. Nhớ nhé!