Little Saigon, nơi có một cộng đồng người Việt đông nhứt hải ngoại, chỉ sau cộng đồng trong nước, là địa danh người Việt hải ngoại thân thương gọi là thủ đô tinh thần của người Việt hải ngoại. Tin các truyền hình tiếng Việt loan tải, “Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon.”
Chợ hoa Tết của cộng đồng người Việt tại Little Saigon, Mỹ, đã tưng bừng mở cửa với các loại hoa xuân, câu đối chào Tết, và những bao lì xì đỏ tươi. Như thường lệ, cứ vào dịp giáp Tết, cộng đồng người Việt ở khu Little Saigon, Quận Cam, Nam California, lại tổ chức chợ hoa Tết bên ngoài thương xá Phước Lộc Thọ. Hội hoa mở màn bằng những tiết mục múa lân rộn rã khiến không khí Tết Nguyên đán như đến thật gần.
Chợ hoa Tết Quí Mão kéo dài với rất nhiều gian hàng bày bán đủ loại hoa, cây cảnh và đồ trang trí. Những chậu mai được các nghệ nhân dày công trồng và tạo kiểu đặc sắc. Sắc hoa tươi tắn mang đến hy vọng về một năm mới hạnh phúc và may mắn cho mỗi gia đình. Ngoài chợ hoa xuân, cộng đồng người Việt ở Little Saigon sẽ tổ chức nhiều chương trình khác để đón Tết Nguyên đán như trình diễn múa lân, áo dài, hay thi gói bánh chưng, bánh tét, ca nhạc đón xuân, đốt pháo, chúc xuân hái lộc, cầu nguyện quốc thái dân an.
Như chương trình đón giao thừa hàng năm tại chùa Điều Ngự. Năm nay thứ Bảy 21-01 (30 tháng Chạp Nhâm Dần (10 am Cúng Rước Ông Bà Tổ Tiên và 6 pm- 1 am Văn nghệ Giao Thừa qua IBC TV 57.19 ( Nam Cali) và 16.12 ( Bắc Cali) và Galaxy 19.
Đối với người Việt Tết là lễ hội văn hoá truyền thống của người Việt Quốc Gia. Trong lễ lộc trong đại này có báo xuân, múa lân, chợ Tết trong đó có chợ hoa, trong những ngày ăn Tết xưa nay thường có nhưng món đi vào thơ văn “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưn xanh.” Trong Nam thì không thể thiếu bánh tráng, bánh tét, bánh phồng.
Ra hải ngoại, người Việt ăn Tết nhiều tính cách cộng đồng nên đón giao thừa tập thể, diễn hành văn hóa hàng năm. Còn đồ ăn Tết không thiếu một món nào bày bán ở các gian hàng và tiệm quán. Các cơ quan, đoàn thể, cộng đồng tổ chức tất niên, tân niên. Cộng đồng, Tổng Hội Sinh Viên cũng có tổ chức hội chợ Tết. Bất cứ nơi nào ở Mỹ, Pháp, Úc có cộng đồng người Việt hải ngoại vài ngàn người thí có tổ chức Tết tập thể.
Tết này nữa là Tết thứ 48 của người Việt Nam hải ngoại sau năm 1975. Bốn-mươi tám năm là khoảng thời gian dài hơn một thế hệ xã hội học 30 năm. Nhưng đối với người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại, đó là cả ba thế hệ chụm lại thành một cuộc hành trình đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang.
Trong lịch sử Việt chưa có một cuộc di tản, di cư nào lớn như vầy. Cuộc di tản sau 30 tháng Tư năm 1975 là một cuộc di tản đông đảo, nguy hiểm, kéo dài, ra khỏi nước nhà, ít ai khi đi hy vọng trở lại được. Riêng phong trào dùng thuyền nan vượt đại dương đã chấn động lương tâm Nhân Loại. Theo ước lượng của Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc, có bao nhiêu thuyền nhân (boat people) đến được bến bờ tự do thì ít nhứt phân nửa đã chết dưới biển vì Việt Cộng rượt bắn, vì sóng biển, vì hải tặc. Nếu tính gian khổ chết chóc trong khi đi và vinh quang phát triển văn minh VN khi định cư ở hải ngoại, thì có thể so sánh với cuộc di tản của dân Do Thái ra khỏi Cổ Ai Cập, ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn minh Tây Phương; Kinh Cựu Uớc của Công Giáo là túi khôn của người Do Thái.
Phàm trong cái rủi có cái may. Trong dòng lịch sử dài của người Việt, chưa bao giờ dân tộc Việt lại có cái may như cái may này. Định cư ngay trong lòng văn minh Tây Phương với khoa học kỹ thuật tiền tiến nhứt hoàn cầu. Nhờ tự do và dân chủ ở các quốc gia định cư, người Việt đã đạt được nhiều kỳ tích. Đi vào dòng chánh chánh trị. Tại Mỹ đi vào Quốc Hội tiểu bang đông dân nhứt Mỹ là Cali, đi vào Quốc Hội Liên bang sau 33 năm. Về kinh tế ăn nên làm ra, tổng sản lượng gộp cao, gởi cho bà con ở quê nhà mỗi năm cả chục tỷ Mỹ kim. Về văn hoá khó mà kể hết những tác phẩm ca nhạc, văn chương đã phát hành. Truyền thông đại chúng Việt ngữ, báo chí, phát thanh, phát hình phát triển vượt bực. Nhiều đại học Mỹ, nhiều cơ quan chánh phủ và ngoài chánh phủ đã cấp quỹ tài trợ những dự án về người Mỹ gốc Việt. Viện bảo tàng Tiểu Bang Cali, Viện Bảo Tàng Smithsonian của Mỹ chuyên về nghệ thuật Nhân Loại đang hình thành phòng trưng bày về người Mỹ gốc Việt.
Khó khăn nhứt cho người Việt hải ngoại là bảo tồn và phát huy tiếng Việt, vì như ở Mỹ tiếng Anh là chuyển ngữ bó buộc làm chìm mọi ngôn ngữ của các sắc tộc thiểu số định cư ở Mỹ. Đặc biệt tiếng Việt lại khó hơn vì đối với chuyển ngữ Mỹ, tiếng Việt là độc âm trong khi tiếng Mỹ là đa âm. Khó đối với tiếng Việt của Cộng Sản đang xài ở nước nhà mà Cộng Sản đang thống trị. Vì tiếng Việt của ngưới Việt hải ngoại sử dụng là tiếng Việt của người Quốc gia, tiếp nối tiếng nói liên tục theo điệu người Việt đã xài trước khi Hà nội mất, Saigon mất vào tay CS.
Nhưng với quyết tâm sắt đá, riêng tại Mỹ quốc gia người Việt định cư đông nhứt, tại các vùng người Việt quần cư nhiều nhứt như California, tiếng Việt được thừa nhận như một sinh ngữ thứ hai, có lớp dạy từ ở đại học nổi tiếng như Berkeley và trường trung học như Bolsa Grande. Truyền thanh, truyền hình, báo chí tiếng Việt lên vệ tinh, lên Internet nhờ vậy loan truyền khắp thế giới, liên kết cộng đồng VN ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc Châu lại với nhau trên cảm nghĩ thuộc về nhau (sense of belonging).
Chẳng những thế, người Việt hải ngoại còn nỗ lực dùng ngôn ngữ để truyền đạt văn hoá cho các thế hệ mai sau. Nhiều tờ báo, nhiều cơ sở tôn giáo, hội đoàn mở hết lớp dạy tiếng Việt này đến lớp khác. Nhưng có một đặc điểm chung, một đồng thuận mặc thị, là không dùng những sách học vần, tập đọc, lịch sử do các Tòa Đại Sứ Việt Cộng tìm cách đưa vào. Còn trong ngôn ngữ viết và nói, người Việt hải ngoại tránh không dùng những chữ Cộng Sản Hà nội du nhập vào Miền Nam. Những chữ thường dùng như chữ “đồng tình” của Cộng Sản thay cho chữ đồng ý của người Việt Quốc gia, những chữ chánh trị như “sơ tán” (sétaner), “sô vanh” (chauvin) bắt chước của Pháp, hay “hồ hởi, phấn khởi, ưu việt, xã hội chủ nghĩa, bức xúc” bắt chước của Tàu Cộng, người Việt Hải ngoại dùng để nhạo, chớ không phải để nói chuyện bình thường.
Biểu tượng người Việt hải ngoại cố gắng bảo tồn và đã thành công là quốc kỳ VN, nền vàng ba sọc đỏ. Quốc kỳ được tôn vinh trở thành thiêng liêng đến mức các nhà xã hội học Mỹ coi tính thiêng liêng của quốc kỳ gần như thiêng liêng tôn giáo (quasi -religious). Và người Việt Hải ngoại xem quốc kỳ VN như hồn thiêng sông núi, không sống được ở VN thì mang VN theo mình như nhà văn Mỹ Dung của cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi nói.
Đối nội trong cộng đồng, bất cứ cuộc tập họp long trọng nào đề có chào quốc kỳ VN và hát quốc ca. Đối với quốc gia định cư, người Việt Hải ngoại, đặc biệt là ở Mỹ biết Mỹ có bang giao với VN Cộng Sản và VN Cộng Hòa của mình tạm thời mất thế quốc tế công pháp, nên đã khôn khéo, linh hoạt uốn mình qua ngỏ hẹp, vận động chánh quyền Mỹ sở tại thừa nhận Cờ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng Tự Do, Dân Chủ của người Việt Hải ngoại.
Xuất phát từ Little Saigon người Việt thân thương gọi là thủ đô tinh thần của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, quốc kỳ VN trở thành thành phong trào lan toả ra cả chục tiểu bang và hàng trăm hành phố quân hạt Mỹ, và bắt đầu vượt đại dương sang Úc Châu. Nhơn dân Mỹ ủng hộ đem treo trên đỉnh Everest cao nhứt của dãy núi thiêng Hymalaya, nóc nhà của thế giới. Quân đội Mỹ ủng hộ cho treo ở chiến trường Iraq, ngày Lễ Lao động Mỹ và 30 tháng Tư 2005.
Những biểu tượng kế tiếp là các phong tục, lễ lộc truyền thống VN đều được gìn giữ và kỷ niệm long trọng. Tinh thần gia đình VN, sự gắn bó của gia đình VN đã giúp cho lớp trẻ Việt ít sa vào các tội phạm xã hội, tỷ lệ ly dị thấp dù Mỹ là nước dẫn đầu thế giới về ly dị. Ngành Nail được người Mỹ gốc Việt biến thành kỹ nghệ độc chiêu ở Mỹ. Món phở VN được Mỹ hóa thành “pho” của Mỹ; món chả giò VN là món ít khi thiếu trong các cuộc tiếp tân ngoại giao Mỹ.
Trong môi trường hoàn toàn tự do, tất yếu các hội đoàn, đảng phái lịch sử, và các cộng đồng non trẻ người Việt hải ngoại có khi chinh chạm, rạn nứt… Nhưng mẫu số chung VN vẫn còn. Tết nhứt, lễ Bà Trưng, Bà Triệu, Quang Trung, Trần Hưng Đạo phe này hay phái kia, dù không thuận nhau đều tổ chức, không ai nở nào bỏ qua. Công cuộc chống Cộng tuy có khác nhau về cách làm, nhưng cùng cứu cánh là đem lại tự do, dân chủ cho đồng bào trong nước, như các tôn giáo dù khác tín lý nhưng vẫn đấu tranh cho tự do tôn giáo.
Nói tóm lại trong 48 năm đoạn đầu của cuộc hành trình tìm tự do, người Việt Hải ngoại đã tự tạo gần đủ điều kiện bằng việc làm tạo thành sự kiện - ngôn ngữ, biểu tượng, lối sống, kinh tế – khả dĩ có thể trở thành một Việt Nam hải ngoại, kiểu Đài Loan đối với Trung Cộng bây giờ, kiểu France d’Outre - mer ( Pháp quốc Hải ngoại) khi Đức Quốc xã chiếm Pháp, người Pháp đoàn tụ dười bóng cờ Pháp quốc Hải ngoại trong Thế Chiến 2 để đánh đuổi quân thù.
Nhưng hành trình của người Việt hải ngoại chưa chấm dứt vì chưa đạt mục tiêu là giúp đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền cho đồng bào trong nước. Liệu thế hệ thứ hai, thứ ba có kề vai, sát cánh gánh vác như cha anVVh hay không?
Vi Anh