logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 16/03/2023 lúc 11:04:38(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,173

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
UserPostedImage
Công nhân lựa cá đánh bắt được tại đảo Lý Sơn (minh hoạ). AFP

Chú thợ trẻ co chân nhảy một cái roạc từ ghe lên cây cầu bến de ra biển trong khu nhà anh L. rồi lúi húi kéo dây, tròng vô đầu cột xi măng ở góc cho chiếc ghe tấp sát, nằm dài kế bên cầu bến. Hai người bạn đi ghe mở nắp hầm thay nhau bưng thành quả của một tuần đi biển lên cho người làm công của anh L. đếm và tính tiền. Còn anh L., anh Y. chủ ghe và mấy người khách tình cờ thì đã ngồi vòng quanh trên chiếc chiếu trải ngay gần đó, ở giữa có mấy dĩa muối ớt, ly nước đá chặt cục bự, một thùng bia đang ướp lạnh. Cái bếp than bén hồng, nướng mớ cá, tôm, mực thơm chảy nước miếng. Mùi thơm lừng lan theo gió biển còn đang rao rao mát - khung cảnh hoàng hôn thần tiên giữa trời biển lồng lộng.
Ghe nhỏ quần nát vịnh Thái Lan
Gần như chiều nào anh L. cũng làm một chiếu nhậu ngay cầu bến như vậy. Ngồi cùng vợ chồng họ thường là mấy chủ ghe đã có “hợp đồng” bán trọn hải sản sau mỗi chuyến ghe như anh N. Có bữa thì có thêm mấy chủ vựa cấp hai mua lẻ từ anh L. rồi bán lại cho mấy quán ăn đông khách du lịch trên đảo. Anh L. cũng có một chiếc ghe lớn hơn, chuyên chở hải sản từ hòn đảo họ đang sống vô tận đất liền bán lại.
Trước, anh L. cũng đi biển. Cũng đóng cái ghe nhỏ như của anh Y., dài chừng 7m, thuê thêm hai bạn (người đi biển thuê được gọi là “bạn”), nữa là ba người, đi biển chừng một tuần thì vô. Nhưng hải sản ngày càng cạn kiệt, ghe nhỏ nhỏ cỡ của các anh “nhiều như lá tre, quần cái vịnh Thái Lan nát ngướu”.
Đang loay hoay khó khăn thì anh trai của anh L. ra tay cứu. Ông cho mượn số vốn lớn, chỉ cách cho em đứng ra làm vựa mua hải sản thẳng từ các tàu nhỏ, chở vô tận đất liền bán lại. Nhà anh cắm chân xuống biển, thuận lợi cho tàu ghé tận cầu cảng.
Ông bà nói đúng, phi thương bất phú. Chỉ ít năm mua đi bán lại, nhờ chăm chỉ siêng năng hết mực và cái nết xởi lởi dễ gần, vợ chồng anh L., đã giàu có hơn hẳn ngày còn ôm cái ghe cá nhỏ đi biển.
Ít lâu sau, quần đảo họ đang sống bùng nổ du lịch nội địa. Anh xây luôn một khu phòng nghỉ cho khách du lịch thuê, giao vợ quản lý. Tưởng bèo bèo mà cuối cùng nhà anh luôn kín phòng cho tới tận sáu tháng sau.
Tuy nhiên, số người may mắn như anh không nhiều. Như anh Y. chẳng hạn, ngồi nhậu thảnh thơi đây một lúc rồi lại phải nhảy xuống tàu, lo cụ bị gạo, rau, dầu, đá… tiếp tục trở ra biển đêm nay. Nếu may mắn trúng cá thì có lời, nếu không họ phải vay mượn để lại ra biển cầu may. Như tháng này, anh Y. mới chỉ trúng được một chuyến, hai chuyến huề vốn.
Giờ dư sức để đóng tàu lớn, làm ông chủ ngồi nhà thuê người đi khơi xa đánh bắt, nhưng anh L. tuyên bố đã giã từ nghề đi biển. Anh chỉ làm dịch vụ.
Hỏi tại sao, anh L. nhấc ly bia lên khà một ngụm, cười dài: “Đói! Đóng ghe lớn là đói chắc, mà mang nợ nữa. Cá đâu mà đánh, càng ra biển càng lỗ tiền dầu”.
Thiệt! So với hai ba chục năm trước thì bây giờ hải sản Việt Nam đã cạn và kiệt đi không tưởng tượng nổi.
UserPostedImage
 Ngư dân thu hoạch cá ở đảo Lý Sơn. Hình: AFP

Biển đã nghèo
Khỏi nhìn đâu xa. Bạn ghe của anh Y. đang đưa cá trong hầm lên kia. Hồi trước ghe về, cá phải chất trong cần xé thiệt lớn, xỏ cái đòn tre đực dày cho hai người đàn ông lực lưỡng khiêng mới nổi. Cá nhiều tới nỗi mang làm mắm, cá nhỏ nhỏ cỡ hai ngón tay thì mang nấu cho heo ăn hết. Giờ, đi cả tuần mà tôm cá không ra mẻ, lác đác ít ỏi như trò chơi, mỗi thứ chỉ đựng vô mấy chiếc khay nhựa vuông vuông chừng 2-5 ký là tối đa.
Cá ngon cũng vô cùng hiếm. Hồi trước cá xanh xương chỉ là cá thông thường, giờ thì nó thành đặc sản; anh L. còn viết hẳn “thông báo” nguệch ngoạc lên tấm carton bìa thùng gắn vô thanh tre đóng bên bìa cái cầu bến “Hôm nay có cá xanh xương”.
Những loại lừng danh như chình biển, bò hòm… có khi cả năm chỉ có vài lần.
Hiếm cá ngon đã chớ, cá đánh được cũng chỉ là loại… chưa mở mắt, size … mini! Những con cá cỡ vài chục ký tới gần tạ, mỗi con nằm gác ngang cái thúng để hai người gánh đi gần như không còn thấy.
Giá cả ngày càng đắt đỏ. Cá ngon có giá vài triệu đồng/kg đã là quá bình thường.
“Cá nục kích cỡ đánh bắt trưởng thành phải cỡ cổ tay, nhưng hiện nay mới chỉ lớn cỡ ngón tay đã bị đánh bắt tận thu. Một tấn cá nục cỡ nhỏ này, nếu trưởng thành có thể đánh bắt với sản lượng gấp hàng chục lần”- năm 2020, ông Nguyễn Văn Trung, Vụ trưởng Vụ khai thác thủy sản (Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) nói trong hội nghị tổng kết năm.
Số liệu từ Viện Nghiên cứu hải sản, Tổng cục Thủy sản cho biết trong giai đoạn 2011 - 2015, trữ lượng trung bình các nhóm nguồn lợi hải sản chủ yếu ở biển Việt Nam ước tính trung bình khoảng 4,36 triệu tấn. Nhưng đến 2016 - 2019, trữ lượng ước tính chỉ khoảng 3,95 triệu tấn, giảm hơn 9,4%, tương đương 410 ngàn tấn. Giảm nhiều nhất là nhóm nguồn lợi hải sản tầng đáy (18,4%); nhóm cá nổi nhỏ giảm 7,3% và nhóm cá nổi lớn giảm 8,8%. Ở vùng biển khơi, trữ lượng nguồn lợi giảm 8,76% so với giai đoạn 2011-2015.
Nhà nước đã yêu cầu không cấp phép, không đóng mới cho thuyền thúng và tàu cá nhỏ từ 20 mã lực trở xuống nữa, vì đội tàu này chuyên khai thác gần bờ và tận diệt nguồn lợi thủy sản. Khuyến khích ngư dân đóng tàu vỏ sắt đi xa bờ. Thế nhưng thực tế các vùng biển đều như anh L. mô tả, tàu nhỏ vỏ gỗ vẫn nhiều như lá tre.
Đó là một cái vòng luẩn quẩn: ngư dân nghèo, không có tiền đóng tàu lớn nên chỉ đi loanh quanh gần bờ-đánh bắt ít, tận diệt nhiều - nguồn lợi nhanh chóng tụt giảm - chủ ghe không có tiền… Biết vậy, nhưng nhiều ngư dân không biết làm cách nào để thoát ra.
Nhiều người nói nhà nước đuổi chỗ này thì họ chạy chỗ khác làm tiếp, chứ không biết làm nghề gì khác.
Học nghề mới thì không còn đủ quyết tâm và mục đích để theo đuổi. Mặt khác các trung tâm dạy nghề cho ngư dân chuyển đổi nghề nghiệp cũng không sát sao trong việc tìm ra nghề nghiệp phù hợp nhất với lực lượng lao động này nên không đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó và quan trọng nhất là ông ngư dân già sắm cái thúng, chiếc ghe nhỏ tí ti đi ven bờ vẫn có thể mang về mỗi ngày vài trăm ngàn đồng, đủ chi phí sinh hoạt cho cả gia đình.
“Cột mốc sống trên biển”
Tuy vậy, hai năm dịch cộng với giá nhiên liệu tăng đã khiến khoảng 50% trong tổng số gần 92.000 tàu cá cả nước phải nằm bờ (con số đầu năm 2022, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn). Chủ tàu phải bỏ tàu đi làm thuê. Bạn thuyền-những ngư dân trẻ không còn nhiều mặn mà với cái nghề bấp bênh, cuộc sống xa gia đình và xã hội, thu nhập không ổn định nên cũng đi học nghề khác hoặc vào làm công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến nỗi nhiều địa phương biển lại phải lo lắng tìm chính sách kêu gọi ngư dân trở lại bám biển.
Với Nhà nước, sự có mặt của ngư dân trên vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam hoặc ngư trường chung quốc tế lại không đơn giản chỉ để mưu sinh. Chẳng biết từ đâu hay từ ai, họ được gọi là “cột mốc sống trên biển”.
“Ra biển không chỉ để hiện diện dân sự, làm kinh tế mà ngư dân còn thực hiện chủ quyền dân sự trên nền tảng các hoạt động kinh tế, có sứ mạng tham gia bảo vệ Tổ quốc” - ông Nguyễn Chu Hồi, Phó chủ tịch thường trực Hội nghề cá Việt Nam đặt lên vai những ngư dân chất phác một cái gánh không thể nói là nhẹ.
Báo chí Việt Nam nhiều lần đưa những vụ tàu Trung Quốc cố tình đâm va tàu cá Việt Nam khiến tàu Việt bị nước tràn nặng hoặc chìm, ngư dân Việt và nhiều trang bị vật dụng trên tàu rơi xuống biển. Các cơ quan chức năng Việt Nam phản đối rất nhanh chóng và kịch liệt. Nhưng hình như không nhiều người nhận ra trong gần như tất cả các vụ việc đó, tàu Việt Nam bị đâm hư hỏng hầu hết là tàu vỏ gỗ cũ kỹ, còn tàu Trung Quốc đều là tàu vỏ sắt, thép. Khoan nói đến công lý và luật pháp, khi đụng nhau trực diện trên biển, phần thua về ai đã quá rõ.
“Tàu vỏ sắt 67” là cụm từ chứa rất nhiều đau thương của ngư dân Việt. Cách đây tám năm, Nhà nước ban hành nghị định 67 hỗ trợ ngư dân vay ngân hàng để đóng mới tàu cá hiện đại, thay vỏ gỗ bằng vỏ sắt, công suất lớn để có thể đi biển xa dài ngày. Do phải có vốn đối ứng với ngân hàng nên người được duyệt cho vay cũng phải là ngư dân lão luyện, tự tin với khả năng theo luồng cá và đã sở hữu được một số tài sản chục tỷ đồng. Nói gọn là người giàu. Nhiều ngư dân lão luyện đã dồn tiền bạc, vay mượn ngân hàng đến hàng chục tỷ đồng để đóng tàu theo chính sách này. Nhưng chỉ ngay sau khi hạ thủy, nhiều người đã vỡ nát giấc mơ vì rất nhiều lý do: tàu đóng không phù hợp hoặc sai hoàn toàn với thói quen và kỹ thuật đánh bắt của từng nghề lưới, máy móc chất lượng tồi tàn, thậm chí là hàng giả nhưng bị hét giá trên trời nên hư hỏng liên tục. Mỉa mai hơn, nhiều tàu có vỏ thép bọc tàu là loại thép kém chất lượng nhập từ… Trung Quốc, khiến chỉ trong thời gian ngắn đã rỉ sét rất nhiều.
Người lãnh hết hậu quả đau đớn, không ai khác vẫn chính là ngư dân. Tàu hỏng phải nằm bờ, tiền sửa lớn hơn tiền đánh bắt cá, số nợ hàng tháng không trả được phình to nhanh chóng khiến nhiều chủ tàu đang từ ông chủ có khối tài sản hàng chục tỷ đồng phải bán sạch sành sanh nhà cửa đất đai để trả nợ ngân hàng nhưng vẫn không đủ, những trụ cột gia đình bỏ tàu đi làm thuê đủ thứ nghề tạm bợ để kiếm tiền ăn. Chỉ vài tháng không trả được lãi và gốc theo hợp đồng với ngân hàng, nhiều người trong số họ đã bị kiện ra tòa.
Giàu cũng chết, nghèo cũng chết. Ngư dân Việt Nam cũng giống nông dân Việt Nam, được phong tặng rất nhiều mỹ từ và trọng trách, nhưng hầu hết thực tế vẫn chỉ là họ tự bơi, tự lo trong hành trình mưu sinh của mình.
Huống chi là bắt họ phải gánh thêm trách nhiệm bảo vệ an ninh trật tự trên biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo… Đó là công việc nguy hiểm, đòi hỏi phải được đào tạo chuyên nghiệp, có phương tiện chuyên dụng, vũ trang đầy đủ… mà những người ngư dân bình thường không thể kham nổi. Họ là những người cần được bảo vệ, không phải lực lượng bảo vệ.
“Những cột mốc sống”- cụm từ mới nghe thì thấy đầy vinh quang, nhưng nghĩ kỹ, tôi thấy rùng mình.

Nguyễn Thảo Dân (RFA)
_____________
Tham khảo:
https://www.qdnd.vn/xa-h...-tiep-theo-va-het-656570
https://vnexpress.net/nh...dan-bo-bien-4484493.html
https://baogialai.com.vn...au-vo-sat-post90622.html


Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.103 giây.