Hôm sau, thứ bảy cuối tuần, xe của trường dạy lái xe đến. Tôi đi ra vừa lúc một cô mở cửa xe bước xuống. Cô gái khá xinh, trạc ba mươi tuổi, bắt tay tôi tự giới thiệu tên Leony dạy láixe. Nhìn tôi cô cười nói “Cha Ivan giao cho tôi nhiệm vụ giúp anh lấy bằng lái xe nhanh và ít tốn kém nhất có thể.” Khi tôi đã ngồi yên ở ghế tài xế, Leony hướng dẫn thật kỹ thủ tục kiểm soát mọi thứ như thắng, kiếng chiếu hậu, thắng tay … trước khi mở máy, quan sát rồi mới báo hiệu cho xe ra. Cô nhắc tôi phải luôn nhớ và cẩn thận vì chạy xe bên lề trái ở Úc ngược với lưu thông ở Việt Nam. Trong vòng một giờ tôi phải thực hành những động tác quan trọng như đậu xe song song (lái xe vào lề giữa hai chiếc xe đang đậu), quay đầu xe theo hình chữ U, ngừng xe ở đèn đỏ trên đường dốc phải kéo thắng tay … Sang giờ thứ hai, Leony chỉ đường tôi chạy quanh gần hết khu Subiaco cho quen đường xá vì cô sẽ ghi danh cho tôi thi lái ở đồn cảnh sát công lộ thuộc khu này. Hết hai giờ học lái xe, cô chỉ đường tôi lái về nhà và phải làm động tác cuối là de xe vào trong sân. Leony nói “Anh lái xe quá vững vàng, không cần học thêm giờ nữa. Tôi sẽ ghi tên cho anh thi, cũng sau giờ làm việc ở sở như hôm nay. Theo thủ tục anh phải trả tiền một giờ cho thời gian thi lái xe. Cha Ivan sẽ báo anh biết ngày giờ thi trong vài ngày tới.”
Chiều ngày thứ ba tuần kế đó Leony đến nhà đón tôi đi Subiaco để thi bằng lái xe lúc 5 giờ chiều. Người cảnh sát mặc sắc phục phụ trách thi khá lớn tuổi, bệ vệ, dáng vẻ nghiêm nghị, tự xưng tên là Peter gọi tôi là “chàng trai trẻ” nghe thân mật và vui vẻ. Nhớ lời dặn của Leony, tôi chào hỏi và mở cửa mời người cảnh sát lên xe. Tôi chậm rãi và cẩn thận làm đúng thủ tục rồi lái xe ra đường. Peter bảo tôi lái một vòng quanh trạm cảnh sát rồi chỉ tôi vào bãi đậu xe của khu thương xá gần đó kiếm chỗ đậu và tắt máy. Tưởng đâu sẽ bị sát hạch thêm vì tôi đã có sai sót gì đó trong khi lái xe, nhưng không phải. Đậu xe khoảng nửa tiếng Peter chỉ nói chuyện chơi. Ông hỏi tôi đủ thứ về nghề nghiệp, gia đình và hoàn cảnh sống ở Việt Nam, vượt biên bằng cách nào … Ông chăm chú nghe tôi một cách thích thú. Sau đó ông bảo chạy xe về trạm cảnh sát. Thấy tôi ngạc nhiên, Peter cười bảo “Anh lái xe rất tốt. Đậu rồi, trở về trạm tôi sẽ cấp bằng lái cho anh.” Tôi mừng quá, nổ máy chạy ngay sợ ông cảnh sát đổi ý. Kể chuyện thi bằng lái của tôi ở Perth nghe giống chuyện hư cấu nhưng thực sự như vậy. Thêm một chuyện tử tế không thể nào quên được của cô giáo dạy lái xe và ông cảnh sát chưa hề quen biết.
Tôi gọi điện thoại báo tin cho Ông Bà Ly và Cha Ivan tôi đã lấy được bằng lái xe. Mọi người vui vẻ chúc mừng. Cha Ivan nói Ông đã được Leony báo cho biết rồi và hỏi tôi đã quyết định mua xe nào chưa. Tôi nói là tôi sẽ mua xe cũ, Ông cho biết là có quen người chủ một chỗ bán xe cũ ở Fremantle gần Mosman Park, nếu muốn Ông sẽ chở tôi đi và giúp tôi làm thủ tục mua trả góp vào chiều ngày thứ tư trong tuần vì những chỗ bán xe đều có mở cửa trễ vào tối ngày đó. Ông cũng nhắc tôi xin giấy chứng nhận việc làm và báo cho bà xã tôi biết là chiều thứ tư Brian sẽ chở tôi về thẳng nhà thờ để Cha Ivan đưa đi mua xe. Chỗ bán xe là một bãi xe cũ rất lớn gồm đủ hiệu xe và đa số còn trong tình trạng tốt. Cha Ivan đã đứng ra bảo lãnh cho tôi vay nguyên vẹn hai ngàn đô không cần bỏ tiền cọc, cộng thêm cả tiền đăng bộ lưu hành và bảo hiểm một năm. Tôi chỉ làm một việc là ký tên giấy tờ và sẽ nhận sổ nợ trả cho ngân hàng trong 24 tháng, mỗi tháng hơn 100 đô thôi. Gia đình tôi trở về thành phố Perth chưa tới hai tuần mà chúng tôi đã ổn định trong ngôi nhà đẹp và ấm cúng, con gái đã đi học, tôi tìm được việc làm tốt, mua được xe để đi làm, đi mua sắm và đưa vợ con đi đây đó. Được như vậy đâu phải đơn thuần nhờ may mắn mà đã nhờ có sự giúp đỡ tận tình của Ông Bà Ly và nhà thờ Anh giáo Mosman Park. Ân nghĩa này chúng tôi không thể quên được. Chủ bãi xe tặng không một thùng xăng đầy. Tối hôm đó, tôi lái chiếc xe hiệu Ford Cortina màu trắng, đời 1972 trông khá đẹp về nhà chứng kiến sự vui mừng của vợ và hai con. Ăn tối xong, tôi chở cả nhà đi chơi một vòng với xe mới mua. Gần nhà có hai thắng cảnh nổi tiếng là hải cảng Fremantle và bến du thuyền sông Thiên Nga ở khu Dalkeith. Khu hải cảng về đêm rực sáng ánh đèn hết sức đẹp và bến du thuyền cũng hấp dẫn không kém, gió sông mát mẻ dễ chịu. Nhìn nỗi vui mừng biểu lộ trên gương mặt hai đứa con chúng tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng.
Ông Bà Ly từng ngỏ ý mời gia đình chúng tôi đi xem lễ nhà thờ Anh giáo. Bây giờ có xe riêng tôi nghĩ mình cũng nên đáp lễ, đến nhà thờ xem nghi thức thờ phượng của Anh giáo có gì đặc biệt không so với Thiên Chúa giáo. Chúng tôi đến nhà thờ Anh giáo ở Cottesloe vào sáng Chủ nhật tuần đó và nhiều tuần sau nữa. Cha Ivan rất vui khi thấy chúng tôi. Sau đó Ông Bà Ly lên tiếng mời chúng tôi gia nhập Hội Thánh, có nghĩa là cải đạo. Việc này tôi biết là sẽ tới nên đã suy nghĩ kỹ có nên hay không. Tôi thưa với Ông Bà là tôi có nghĩ đến nhưng rất tiếc không thể làm được, không phải chỉ vì bảo vệ tín ngưỡng riêng mà còn vì hoàn cảnh. Tôi là con trai trưởng trong gia đình có bổn phận và nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên. Cha Mẹ của tôi vẫn còn sống ở Việt Nam có lẽ không ủng hộ việc tôi cải đạo. Từ đó Ông Bà Ly không nhắc nhở lại chuyện này. Tôi đã lo việc từ chối có thể làm cho người bảo trợ và giáo hội không hài lòng nhưng họ vẫn tiếp tục giúp đỡ chúng tôi tận tình và hào sảng như không có chuyện gì xảy ra. Tôi đã may mắn gặp được người tốt, có thể nói là hiếm có, để mau chóng ổn định cuộc sống nơi quê hương mới bao dung và đầy tình người như xứ Úc này.
Ở công ty Komatsu công việc của tôi là nghiên cứu cải thiện hiệu năng và tư vấn tu bổ cơ giới cho các hầm mỏ. Việc làm này tương đối dễ và thuận lợi với kinh nghiệm tôi có được qua thời gian phục vụ ở Việt Nam. Gần hai tháng sau, một cơ hội may mắn khác lại đến với tôi. Vào một buổi chiều cuối tuần Ông Bà Leith ghé thăm cầm theo tờ “Thời báo Chủ Nhật” chỉ cho tôi xem ở mục tìm người làm có đăng “Nhà máy Xi măng Swan (Thiên nga) cần tuyển một kỹ sư dự án tu bổ”. Ông bảo “Tôi nghĩ đây là cơ hội tốt. Trước kia anh đã làm cho công ty xi măng ở Việt Nam, qua Úc làm việc cho xi măng Swan thì quá thích hợp. Hay là anh cứ thử đi, chỉ có được chứ không mất gì.” Bà thì hết sức cổ vũ tôi để xin việc làm này. Tôi thành thực bày tỏ về sự lo ngại đang làm cho Komatsu được đối đãi nồng hậu mà bỏ đi làm chỗ khác có tốt không. Ông Bà vui vẻ bảo “Đây là chuyện bình thường thôi. Anh có suy nghĩ rất đôn hậu như vậy rất tốt, chỉ nên báo cho kỹ sư Bayliss anh xin việc ở Xi măng Swan, được hay không đều sẽ không có thiệt hại gì cho Komatsu, ông Bayliss còn phải mừng cho anh”. Theo lời khuyên chí tình của Ông Bà bảo trợ, tôi viết đơn xin việc cùng với hồ sơ chi tiết về học trình kỹ sư và quá trình làm việc cho xi măng ở Việt Nam rồi gởi bưu điện cho Xi măng Swan. Chỉ mấy ngày sau tôi nhận được thư hồi đáp, báo cho biết ngày thứ hai tuần kế đó vào lức 10 giờ sáng tôi sẽ gặp kỹ sư trưởng Bob James để phỏng vấn. Ông Bà bảo trợ rất vui khi nghe tin. Ông bảo tôi đem thư này cho kỹ sư Bayliss xem và xin nghỉ ngày thứ hai tuần tới. Bà ân cần dặn tôi phải sẵn sàng lúc 8 giờ sáng, cả hai Ông Bà sẽ đón tôi đi sớm có việc rất cần thiết để chuẩn bị tốt cho cuộc phỏng vấn sắp tới. Nghe trong giọng nói của Bà có vẻ thật ân cần và trang trọng tôi muốn hỏi thêm nhưng ngại nên thôi. Đúng giờ, Ông Bà đến nhà chở tôi đi khu thương xá thật lớn và sang trọng ở khu Cottesloe, vào một tiệm bán quần áo để mua tặng cho tôi bộ đồ vét. Bà bảo “Hôm nay là buổi phỏng vấn quan trọng, cần ăn mặc thật trang trọng mới xứng với công việc mới”. Thái độ ân cần và chăm sóc quá chu đáo đã làm cho tôi thật xúc động, nhưng nhìn giá bán ghi trên thẻ treo trên bộ quần áo tôi thấy ngại quá vì nó trị giá hơn nửa tuần lương của tôi ở công ty Komatsu. Món quà tặng này quá bất ngờ và lớn quá. Ông Bà Ly và nhà thờ Anh giáo đã giúp gia đình tôi nhiều quá. Từ chối thật khó, nhận thì cũng bất an vì nợ ân tình càng ngày càng cao, khó mà trả được. Vả lại, tôi thấy không thật sự cần thiết đối với dân tị nạn mới đến Úc đi phỏng vấn xin việc làm nên tôi đã bày tỏ suy nghĩ của tôi và chỉ xin mua một áo sơ mi trắng dài tay và chiếc cà vạt thôi. Thấy tôi đã quyết Ông Bà cũng chiều ý.
Ông Leith đưa bà về nhà rồi chở tôi đến nhà máy xi măng Swan nằm cạnh sông Thiên Nga thuộc khu Riverval phía Nam của thành phố Perth. Cô thư ký đưa tôi vào văn phòng kỹ sư trưởng Bob James trong khi Ông Ly chờ ở ngoài. Kỹ sư James khá trẻ, lớn hơn tôi chừng vài tuổi, người tầm thước, nói năng lịch lãm và vui vẻ. Anh hỏi rất kỹ về nhiệm vụ của tôi ở nhà máy xi măng trước 1975, vừa nghe vừa cười trông có vẻ thoải mái và đắc ý. Nói chuyện được khoảng nửa tiếng, anh đứng lên cười nói “ Vậy là anh đã từng làm việc cho công ty xi măng ở Việt Nam không khác gì kỹ sư trưởng, ngang cấp với tôi. Tôi không thể quyết định việc tuyển dụng nên cần lập ủy ban để phỏng vấn. Anh chờ một lúc, tôi sẽ quay lại.” Anh đi ra vài phút thì cô thư ký mang vào cho tôi cái khay có ly cà phê cùng với hai hủ nhỏ đựng đường và kem. Tôi hơi yên tâm vì đang lo lắng, nghĩ là sắp có chuyện lớn vì lần đầu nghe nói đến ủy ban phỏng vấn. Tôi tự trấn an vì thấy không có gì phải lo ngại bởi tôi đang có việc làm tốt. Chậm rãi nhấm nháp gần hết ly cà phê thì kỹ sư trưởng James trở lại với gần đầy đủ những vị chỉ huy kỹ thuật của nhà máy. Tôi nhớ rõ hiện diện hôm đó có tổng giám đốc Mac Kay, giám đốc kỹ thuật Harry Martlew, phó GĐ kỹ thuật Jef Trew, kỹ sư trưởng Bob James. Trưởng phòng kỹ thuật kỹ sư Bernard Hume, trưởng xưởng tu bổ cơ khí kỹ sư Don Wall, trưởng phòng thí nghiệm vật liệu kỹ sư Yuli , kỹ sư dự án Jeof Woodard, đốc công trưởng David Scott và cô thư ký Karen Rings phụ trách lập biên bản. Tôi không nhớ rõ buổi phỏng vấn “hội đồng” này kéo dài bao lâu, chỉ biết là lâu lắm vì ai cũng chất vấn tôi với nhiều câu hỏi bao quát và khó như năng suất các máy móc quan trọng, chương trình tu bổ tiên liệu ở xi măng Hà Tiên và tỉ mỉ, hóc búa như cỡ lò nung và máy nghiền, kích thước dây xích, gạch cách nhiệt, nhiệt độ và chiều dài ngọn lửa trong lò nung … Tôi đã cố gắng rất nhiều vì phải giữ bình tĩnh để trả lời rành mạch vừa phải vận dụng trí nhớ để trả lời cho đúng các câu hỏi chi tiết vì trước mặt tôi toàn nhưng tay tổ của kỹ nghệ xi măng. Yêu cầu cuối cùng của ông tổng giám đốc là “Tôi thấy như vậy là tạm đủ. Bây giờ nếu anh vẽ được sơ đồ của dây chuyền sản xuất cùa nhà máy xi măng anh đã từng làm ở Việt Nam thì chúng tôi sẽ nhận anh vào làm việc ở nhà máy này.” Tôi thở phào nhẹ nhõm vì vẽ là “nghề” của tôi. Với phấn màu, trên bảng thật to trong phòng họp, tôi đã vẽ một sơ đồ đầy đủ, rõ ràng và rất đẹp từ hầm đá vôi, hầm đất sét với cơ giới, cối xay đá, máy quậy bùn đất sét, rồi băng tải đá và ống dẫn nguyên liệu vào đến bồn chứa, máy nghiền vữa xi măng, hai lò nung cho đến cầu chạy chuyển đá nung (xi măng bán thành phẩm) từ kho chứa xuống sà lan chở về nhà máy nghiền và đóng bao xi măng ở Thủ Đức. Sơ đồ dây chuyền sản xuất hoàn tất không thiếu văn phòng hành chánh, phòng thí nghiệm, câu lạc bộ, y xá, kho bãi cùng khu bồn chứa nhiên liệu. Khi tôi vẽ xong các xếp đều vỗ tay hoan hô. Ông giám đốc kỹ thuật bắt tay tôi chúc mừng và mời tôi về văn phòng của ông. Đi ngang chỗ Ông Ly đang ngồi ông Martlew cười, gật đầu và chỉ tay vào văn phòng của ông . Ông Ly đứng dậy cười thật tươi bắt tay tôi rồi đi theo chúng tôi. Khi chủ khách đã yên vị chuông điện thoại reo. Sau khi nói chuyện với ông Tổng giám đốc, ông Martlew nói “Nhà máy đang cần một kỹ sư có kinh nghiệm như anh. Chúng tôi sẽ trả lương 26 ngàn đô một năm. Về vấn đề chức danh, chắc anh cũng biết là luật lao động của tiểu bang Tây Úc không công nhận bằng cấp của các nước ngoài không thuộc khối Thịnh Vượng Chung. Vì thế,chức danh của anh ở Swan Cement sẽ là “Nhân viên nghiên cứu cơ khí lâu năm (senior mechanical designer). Nếu anh đồng ý thì sẽ nhận việc ngay”. Tôi lặng người trong nỗi vui mừng vì bắt được việc làm đúng nghề cũ với tiền lương hậu hĩnh bất ngờ như thế. Với hoàn cảnh tị nạn như tôi đã có việc làm rồi, chức danh là gì thật không quan trọng. Hơn nữa, “nghiên cứu cơ khí” là việc của kỹ sư, “lâu năm” mới hưởng lương cao, còn đòi hỏi gì hơn. Tôi xúc động không nói nên lời, chỉ biết gật đầu. Không chờ cho tôi bớt bối rối Ông Ly lên tiếng “Nếu có thể xin cho anh ấy nhận việc vào tuần sau vì đang làm cho công ty Komatsu. Việc cần làm bây giờ là nộp đơn xin nghỉ theo luật định”. Ông Martlew nhấc điện thoại lên, bấm số gọi ai đó. Sau đây là nguyên văn một đoạn đối thoại quan trọng mà tôi không thể quên được sau bao năm tháng “ … ông John Bayliss phải không? Chào John, bạn khỏe không? Tôi bắt cóc được một kỹ sư của anh, đang ngồi ở đây. Anh ấy xin việc xi măng Swan và tôi đã nhận rồi. Cảm phiền nghe bạn …” Sau ít phút trò chuyện ông Martlew gác máy nhìn tôi và Ông Ly cười sảng khoái “Xong rồi. ông Bayliss không phiền hà gì cả và không quên chúc mừng. Ông ấy nói ngày mai anh trở lại Komatsu làm thủ tục xin nghỉ và sẽ nhận việc Xi măng Swan vào ngày mốt.” Trên đường về nhà tôi kể Ông Ly nghe diễn tiến buổi làm việc căng thẳng và kéo dài với ủy ban phỏng vấn và xin lỗi đã để ông phải chờ lâu quá. Ông vui vẻ bảo “Tuy có lo nhưng tôi vẫn tin tưởng là anh sẽ thắng vì anh là người có thực tài. Tôi có chờ lâu hơn cũng không sao. Xin ngợi khen và chúc mừng anh đã tìm được việc làm tốt như ý.” Tôi hỏi Ông có quen biết trước với giám đốc kỹ thuật Martlew không, Ông nhìn tôi, cười rất hóm hỉnh, bảo “Tôi quen ông ấy khá thân, nhưng đã không nói gì đến chuyện anh xin việc ở Xi măng Swan.” Tôi cám ơn Ông Bà và cũng thầm tri ân những vị giáo sư của trường kỹ sư đã đào tạo tôi trở thành người hữu dụng và thấy những năm tháng miệt mài làm việc cho nhà máy xi măng ở Việt Nam thật không lãng phí. Công việc của tôi ở xi măng Thiên Nga rất thuận lợi vì rất giống nhà máy xi măng tôi từng làm , từ trang thiết bị, phương pháp sản xuất cho đến điều hành nhân sự, chỉ khác một chút là nhà máy Swan cũ hơn rất nhiều. Ở đây tôi được nhiều người quí mến, nhất là ông phó giám đốc kỹ thuật Jeff Trew, luôn luôn quan tâm và đối xử vối tôi rất cởi mở và thân tình. Khi chuyển về làm việc cho xi măng Sydney với cương vị Giám đốc, ông có ngỏ lời mời tôi sang làm việc nhưng tôi không thể nhận lời vì di chuyển qua tiểu bang khác không dễ dàng gì. Kỹ sư trưởng Bob James và tôi trở thành bạn thân vì tôi đã chia sẻ gánh nặng công việc với anh. Mỗi tháng, cuối ngày thứ sáu tuần đầu Bob thường mời nhân viên phòng kỹ thuật họp mặt ở nhà hàng cạnh bờ sông Thiên Nga có nhiều mục hấp dẫn rất vui vẻ. Ông Bernard Hume, kỹ sư hàng không khá lớn tuổi, xếp trưc tiếp, đối xử tốt và rất tin tưởng tôi, công tác khó ông đều giao cho tôi, Khi xong việc đưa cho ông ký duyệt trước khi trình giám đốc lần nào ông cũng xem qua loa ký ngay rồi đưa trả lại tôi nháy mắt cười. Ông cũng là họa sĩ tài tử vẽ ký họa rất đẹp, mỗi khi hoàn tất một họa phẩm ông đem vào sở khoe với tôi, chúng tôi đã trao đổi ý kiến bàn luận rất tương đắc. Riêng mục hút thuốc cũng có chuyện đáng nói. Phòng kỹ thuật rất rộng. Ông chánh và phó giám đốc kỹ thật, kỹ sư trưởng, đốc công trưởng ngồi trong phòng riêng ở bốn góc, còn lại kỹ sư, kỹ thuật viên, họa viên chia nhau ngồi hai dãy bàn hướng về phòng giám đốc. Thư ký Karen ngồi bàn nhỏ sát cửa phòng giám đốc. Dân kỹ thuật làm việc văn phòng thường hút thuốc nặng, có lẽ vì phải vận dụng trí óc nhiều. Ông Hume hút tẩu và xài thứ ngon hiệu “Half and half” nên mỗi lần ông hút thuốc cả phòng thơm lừng. Giám đốc kỹ thuật cũng hút tẩu. Bob và tôi hút thuốc lá nhiều và có cùng “gu” là thuốc Winfield màu xanh. Khi hết thuốc hút chưa kịp mua anh chàng cứ chạy ra bàn làm việc của tôi nhón một điếu châm lửa hút rất tự nhiên. Lâu lâu cũng mua nguyên gói, đi ngang bỏ trên bàn của tôi và cười hì hì. Những người khác hầu hết cũng là dân “lửa khói”. Năm 1983, khi bước vào phòng chúng tôi thấy dán trên tường hai tờ giấy lớn cỡ A2 in chữ màu rất bắt mắt có nội dung “Tôi là Karen Ring, thư ký phòng kỹ thuật, nhà máy Xi măng Thiên Nga, sẽ thưa những người hút thuốc lá trong phòng này ra tòa vì gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người khác.”. Thời điểm đó không có luật cấm hút thuốc lá ở một số nơi như bây giờ, cô thư ký khó chịu này chắc muốn làm nổi nên làm chuyện tào lao. Xứ tự do mà. Khi Ông Martlew bước vào phòng nhìn thấy hai tờ bích chương hăm dọa ấy cũng chỉ biết giơ hai tay lên trời cười ha ha. Từ đó, cứ vào giờ “uống trà” (morning & afternoon tea) dân khói lửa pha cà phê bưng ra bãi cỏ bên ngoài phòng kỹ thuật ngồi hút thuốc trò chuyện vui vẻ và thiên hạ cứ mãi thái bình thôi. Những lúc khác ai lên cơn ghiền thì cứ ung dung bỏ gói thuốc và bật lửa vào túi, thong dong đi xuống nhà máy tha hồ mà hút. Mất công một tí nhưng sẽ giãn gân cốt vì ngồi lâu.
Trong suốt thời gian cư ngụ ở Mosman Park Bà Ly cứ đều đặn lái xe đến nhà mỗi tuần ba lần để thăm viếng và dạy Anh văn cho vợ tôi. Sân vườn trước nhà trồng nhiều hoa hồng rất đẹp, nên Bà dạy cho vợ tôi cách chăm sóc hoa hồng. Mấy chục năm sau, khi đã chuyển nhà tới hai lần, nhà nào cũng được trồng hoa hồng thật đẹp vì bà xã tôi đã trở thành “chuyên gia” về hoa hồng. Nói về chuyện học Anh ngữ, xin kể thêm là cả hai Ông Bà đều khuyên và nhắc nhở nhiều lần là chúng tôi nên nói chuyện với các con ở nhà bằng tiếng mẹ đẻ và dạy tiếng Việt cho lớp trẻ không quên cội nguồn. Đây là điều thật quí giá và đáng khâm phục vì tôi biết ít có người bảo trợ nào có được sự hiểu biết sâu sắc và suy nghĩ đẹp đẽ như Ông Bà Ly của chúng tôi. Tôi thường đưa cả nhà đến thăm ở tư gia Cottesloe vào cuối tuần và những dịp lễ cuối năm, hay mời Ông Bà đi ăn ở nhà hàng Việt Nam nổi tiếng ở Perth. Vào giũa năm 1982, trong một buổi tiệc vui vẻ Ông Ly có đề cập đến việc xin chính thức công nhận bằng cấp kỹ sư và khuyên tôi nên xúc tiến vì sẽ có ích lợi trong tương lai. Ông cho biết chính phủ liên bang Úc có lập cơ quan xét duyệt và công nhận bắng cấp Đại học của các nước không thuôc khối Thịnh Vượng Chung. Cơ quan đó có tên là “Sở nhân dụng chuyên môn” PES (Professional Employment Service). Ông cho tôi số điện thoại và địa chỉ ở Canberra, thủ đô Úc để liên lạc nếu tôi muốn. Bà Ly nhiệt liệt ủng hộ chuyện này. Bà rất sốt sắng bảo “ Đây là chuyện rất tốt, nên làm. Gọi điện thoại liên tiểu bang khá tốn kém, anh có thể sử dụng máy của nhà tôi.” Sau đó, tôi liên lạc với PES để xin công nhận bằng Kỹ sư Công nghệ. Để khỏi phụ lòng tốt của Ông Bà tôi có gọi nhờ điện thoại lần đầu tiên còn những lần sau tôi gọi từ sở làm hay ở nhà.
Tôi đã gởi đơn và tất cả những giấy tờ cần thiết về thủ đô Canberra, dĩ nhiên là hồ sơ tự soạn vì nguyên bản đã bị cướp mất khi vào đất Thái Lan. Việc công nhận bằng cấp thật không dễ dàng chút nào và kéo dài hơn nửa năm với rất nhiều cuộc điện thoại viễn liên. Tôi đã được phỏng vấn bởi nhiều giáo sư có học vị rất cao từ ủy ban xét duyệt, mỗi lần một người khác. Nội dung phỏng vấn chú trọng đến học trình kỹ sư của tôi, chi tiết tôi có được về các vị giáo sư của các môn học ở trường và công việc làm hiện tại ở Perth. Vào buổi phỏng vấn cuối cùng tôi có báo cho họ biết là đầu năm học 1982 tôi đã ghi danh ở trường Cao đẳng Kỹ thuật Perth học lớp đêm để thi lại bằng cấp kỹ sư. Tôi học ba môn quan trọng và đã thi đậu cả ba với số điểm rất cao. Theo yêu cầu, tôi gởi tiếp theo chứng chỉ đậu ba môn học này. Có lẽ, thành tích này giúp cho tôi rất nhiều. Một tháng sau Canberra gởi cho tôi Bản công nhận bằng Kỹ sư cơ khí. Gia đình tôi rất vui và cảm động vì nó là một phần kết quả của sự phấn đấu không ngừng nghỉ của một kỹ sư nơi xứ lạ quê người. Rất tiếc và thật đau buồn vì Bà bảo trợ thân kính của chúng tôi không thấy được mảnh bằng quí giá này. Khi tôi bắt đầu liên lạc với Canberra thì Bà ngã bệnh và căn bệnh hiểm nghèo đã cướp đi mạng sống của Bà chỉ vài ngày trước khi tôi nhận được bằng cấp qua bưu điện. Ông Ly có kể là trên giường bệnh khi tỉnh táo Bà đều hỏi thăm kết quả về chuyện này. Bà đã được đưa về nơi an nghỉ cuối cùng ở nghĩa trang Fremantle.
Không lâu sau ngày Bà qua đời, Ông Ly nghỉ hưu, bán ngôi biệt thự ở Cottesloe, mua một miếng đất lớn ở Mosman Park, chỉ cách chừng trăm mét ngay sau ngôi nhà chúng tôi đang thuê và xây biệt thư song lập. Ông ở một căn và cho gia đình Margaret căn kế bên để tiện gần gũi chăm sóc. Sau mấy năm làm việc tôi dành dụm đủ tiền mua đất cất nhà mới ở Kewdale ở phía nam sông Thiên Nga. Đây là khu dân cư nghèo hơn nhưng cũng khá tiện lợi vì gần nhà máy xi măng Thiên Nga và trường học. Con gái Tuyết Vân học năm cuối tiểu học, năm sau đó lên trung học và trường chỉ cách nhà một khoảng đi bộ năm phút. Khi con trai Đăng Khoa được 6 tuổi vào học trường tiểu học tư thục Thiên Chúa giáo, rất tiện cho tôi đưa đón trên đường đi làm. Gia đình chúng tôi dọn về nhà mới xây ở Kewdale cùng lúc Ông Ly và gia đình Margaret cũng dời về biệt thự song lập ở Mosman Park. Lúc đó Ông còn khỏe, năm nào cũng đi du lịch ngoại quốc. Tuy ở hơi xa và bận rộn nhưng chúng tôi thường đến thăm. Dịp Giáng Sinh nào cũng mang quà xuống biếu Ông. Năm 2001 Ông Ly bắt đầu dành hết thì giờ để viết hồi ký. Tập “Nhiệm vụ đã xong” dày 260 trang, xuất bản cuối năm 2001, kể lại chuyện đời của Ông từ lúc ra đời ở đảo quốc Fiji, nơi cha ông có trang trại trồng mía và nhà máy sản xuất đường. Sau đó gia đình về sống ở Úc. Khi trưởng thành Ông gia nhập không quân khi thế chiến thứ hai bùng nổ. Đọc tập hồi ký này tôi thêm kính phục và ngưỡng mộ những chiến công lẫy lừng của Ông qua nhiều trận không chiến ác liệt. Ông đã nhận được rất nhiều huân chương của không quân Hoàng gia Úc và Vua nước Anh. Ngay trang đầu của tập hồi ký có lời đề tặng cho Mẹ (Eileen) cùng vợ của Ông (Meg) và ghi thêm tiền bán hồi ký sẽ tặng hết cho “tổ chức gia cư Anh Giáo” dành để giúp cho người già ở Tây Úc. Chúng tôi không phải là người già nhưng cũng nhận được sự giúp đỡ hết lòng để xây dựng lại cuộc đời nơi quê hương mới, chứng tỏ từ tâm của Ông Bà cao quí tới chừng nào. Ông qua đời thật bình yên vào năm 2008. Tang lễ của Ông được tổ chức thật trang trọng theo nghi lễ quân cách ở nhà thờ Anh giáo Cottesloe. Ngoài thân quyến, bằng hữu còn có nhiều chiến hữu phi công của Ông cùng rất đông sĩ quan hiện dịch của không quân và nhiều quân binh chủng khác nữa giàn chào trước linh cữu. Tôi cũng đã có mặt để vĩnh biệt và tiễn đưa Ông đến nơi an nghỉ, cũng là nghĩa trang Fremantle.
Tôi viết bài này khi chúng tôi đã dọn về ngôi nhà mới thứ hai ở Noranda, khu dân cư trung lưu. Hai con của chúng tôi đã ăn học thành tài, có gia đình và cơ ngơi riêng. Với Bà Ly chỉ ngắn ngủi có mấy năm, với Ông 28 năm gia đình chúng tôi luôn kính trọng như Cha Mẹ. Nhờ sự giúp đỡ quí báu của Ông Bà và giáo hội Anh giáo chúng tôi đã có đời sống yên bình và hạnh phúc nơi quê hương mới. Giờ này, Ông Bà và Cha Ivan không còn nữa nhưng hình ảnh của họ vẫn sống mãi trong tâm khảm của chúng tôi với lòng tri ân vô bờ bến.
Vĩnh Ngộ