« Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó » bởi vì « chính sách của Hoa Kỳ nay thế này mai thế khác (...) ». Tâm sự này của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu vào thời điểm năm 1975/1976 làm mọi người nhớ đến một trong những nhà ngoại giao lỗi lạc nhất của Mỹ với câu nói để đời : « Làm kẻ thù của Mỹ có thể nguy hiểm. Làm bạn với Mỹ là mối nguy hiểm chết người ».

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu bắt tay tổng thống Mỹ Richard Nixon tại Đảo Midway ngày 08/06/1969. Hai bên thông báo kế hoạch rút 25.000 lính Mỹ khỏi Miền Nam Việt Nam. AP
Nhân kỷ niệm 50 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, RFI tiếng Việt mời giáo sư tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trở lại với sự kiện Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Là một chuyên gia kinh tế, ông từng giảng dạy tại nhiều đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ trước và sau năm 1975, nguyên là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Trong nửa đầu thập niên 1970, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng là phụ tá của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phụ trách Tái Thiết và đứng đầu bộ Kế Hoạch và Phát Triển.
Là người trong cuộc, nhân chứng hàng đầu trong một giai đoạn lịch sử của Việt Nam ở thế kỷ 20, giáo sư Hưng đã ra mắt độc giả nhiều tác phẩm về giai đoạn này1. Mùa xuân năm 2024, ông đã cho phát hành cuốn « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm » - Nhà xuất bản Hứa Chấn Minh.
*****
RFI : Xin kính chào giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Cảm ơn ông nhận trả lời Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp. Trước hết, xin giáo sư kể lại một kỷ niệm của Ngày 30 tháng 4 năm 1975.
GS Nguyễn Tiến Hưng : Vâng thưa cô Thanh Hà, ngày 30/04/1975 tôi đang có mặt ngay tại thủ đô Washington nhờ một cơ duyên lịch sử tôi đã được chứng kiến toàn bộ tiến trình của cuộc chiến Việt Nam. Cuộc chiến này bắt đầu khi tổng thống John F. Kennedy quyết định dấn thân vào Việt Nam và viết thư cho tổng thống Ngô Đình Diệm là « Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp tay với Việt Nam Cộng Hòa, tăng cường nỗ lực chiến đấu. Phải chiến đấu thắng Cộng sản ». Hôm ấy là ngày 11/05/1961.
Cho đến khi nghe tổng thống Gerald Ford tuyên bố : « Đối với nước Mỹ, cuộc chiến Việt Nam đã xong rồi. Ta hãy quên đi quá khứ và nhìn về tương lai ». Hôm đó là ngày 27/04/1975. Rồi ba ngày sau ông im lặng nhìn Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Ngày 30 tháng 4 là ngày dài nhất và đau lòng nhất trong đời tôi : Dài nhất vì tôi đã thức trắng đêm 29 để chuẩn bị cho cuộc họp báo ngày 30 tháng 4. Đau lòng nhất vì tôi không những nhìn thấy sự bi thương của đồng bào miền Nam đang bị bỏ rơi mà còn cảm giác cay đắng về sự phản bội của đồng minh, từng được xem là đồng minh chiến lược.
RFI : Vì sao giáo sư đã có mặt tại Washington trong những ngày 29 và 30 tháng 4 ?
GS Nguyễn Tiến Hưng : Về nhiệm vụ của tôi Ngày 30 tháng 4, bối cảnh là như thế này : Ngày 19/04/1975, Quốc Hội Mỹ dự trù biểu quyết để xem có tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa nữa hay không. Tin tức Dinh Độc Lập có được thì rất là tuyệt vọng.
Ngày 14 tháng 4, tức là chỉ hai tuần trước khi Sài Gòn sụp đổ, tổng thống Thiệu chỉ thị tôi phải đi ngay Washington cùng với ngoại trưởng Vương Văn Bắc và đại sứ Trần Kim Phượng. Chúng tôi phải đưa ra một giải pháp tức là yêu cầu Mỹ cho vay ba tỷ đô la trong 3 năm, rồi chúng tôi sẽ hoàn lại hết. Mục đích của giải pháp này là để Quốc Hội Mỹ đừng quyết định ngừng viện trợ cho miền Nam Việt Nam và tuyên bố cho cả thế giới biết vào ngày 19/04/1975.
Tôi lên máy bay sáng sớm ngày 15/04/1975 tại Tân Sơn Nhất. Sang đến Washington thì Quốc Hội đã hành động xong rồi. Rất là đau đớn. Tôi liền thay đổi mục tiêu và hướng đến việc kêu gọi cứu vớt đoàn người tị nạn đang túa ra Biển Đông. Sau đó thì Quốc Hội cấp một khoản tiền 455 triệu đô la để tài trợ cho chương trình định cư.
RFI : Trong cuốn sách giáo sư cho ra mắt bạn đọc mùa xuân 2024, « Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm », do thời gian có hạn nên xin phép tập trung vào phần 2 của cuốn sách : Một Kế Sách, tám thủ đoạn. Giáo sư giải thích Henry Kissinger, người sau này trở thành ngoại trưởng Hoa Kỳ và có lúc kiêm nhiệm luôn cả chức Cố Vấn An Ninh Quốc Gia dưới 2 thời tổng thống Nixon và Ford, « ít nhất là đã hình thành kế sách Decent Interval từ năm 1967 » (tr.141). Thưa ông chiến lược đó là gì ?
GS Nguyễn Tiến Hưng : Tựa đề Bức tử Việt Nam Cộng Hòa, tôi nghĩ là đã nói lên tất cả rồi. Cuốn sách là một lời cáo trạng lịch sử dựa trên Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập mà tôi rất may mắn còn giữ được. Vì nếu mà tôi không giữ được hồ sơ đó thì không ai biết được chuyện Việt Nam Cộng Hòa kết thúc như thế nào, vì Kissinger đã giấu đi hết.
Chiến lược Decent Interval của ông ấy là làm thế nào để có một « Khoảng thời gian coi cho được », để khỏi mất danh dự : Kissinger quan niệm Mỹ không thể nào chiến thắng ở cuộc chiến Việt Nam, bởi đây là một cuộc chiến du kích mà Mỹ thì không quen với chiến tranh du kích : Thế Chiến Thứ Nhất, Thế Chiến Thứ Hai, Chiến Tranh Triều Tiên đều là chiến tranh quy ước.
Thành thử Henry Kissinger đã nghĩ ra chiêu bài Decent Interval : miễn là làm sao có được một khoảng thời gian - như là độ vài năm, từ khi Mỹ rút lui khỏi miền Nam cho đến khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Vì như vậy không mang tiếng là bỏ rơi đồng minh.
Để thi hành chiến được đó, Kissinger phải dùng đến thủ đoạn. Ông ấy đã nghĩ rằng chỉ còn cách là đạt được một hiệp định : Hiệp Định Paris cho phép nước Mỹ « ra đi » một cách danh chính ngôn thuận. Ông Kissinger cố gắng hết sức trong bí mật điều đình với Miền Bắc để Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27/01/1973.
Tôi đang trả lời phỏng vấn với đài RFI bên Paris, thì cái chữ Paris nó dính liền với óc tôi rất là sâu đậm vì Hiệp Định Paris và trước đó nữa thì cũng đã có những sự kiện về chiến tranh Việt Nam cũng xảy ra ở Paris .
:
‘Kissinger nói với TT Nixon rằng bỏ Miền Nam Việt Nam sẽ chẳng ảnh hưởng gì tới chính sách ngoại giao của Mỹ ! (tr.194):RFI : Như tựa đề phần 2 trong cuốn sách Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm, tám thủ đoạn đó gồm Dối gạt tổng thống Nixon, Nhân danh ông Nixon gây áp lực với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Vẽ một kế hoạch tối mật để thuyết phục đồng minh là Việt Nam Cộng Hòa, Tung hỏa mù Quốc Hội Mỹ, Che mắt luôn cả tổng thống Ford… Nhưng theo giáo sư trong số này, thủ đoạn nào là nham hiểm nhất ?
GS Nguyễn Tiến Hưng : Có lẽ thủ đoạn nham hiểm nhất là lừa dối tổng thống Nixon. Khi Nixon lên cầm quyền tháng 1/1969, ông đã hứa sẽ đem lại một giải pháp hòa bình cho Việt Nam – Vừa hòa bình vừa danh dự, chứ không phải là một cái hiệp định để che giấu sự thất bại. Thế nhưng Kissinger « giỏi » lắm. Ông ấy « tài ba » lắm : Kissinger đã che đậy thất bại của ông ấy sau 4 năm hòa đàm. Tổng thống Nixon thì không tin vào đàm phán mà chỉ tin vào chương trình mà ông gọi là « Việt Nam hóa » tức là giúp cho miền Nam tự lực tự cường để một mình có thể chiến đấu được, tồn tại được. Kissinger thì ngược lại : ông ấy không tin vào giải pháp Việt Nam hóa của Nixon và đã thuyết phục tổng thống rằng tại sao chủ trương Việt Nam hóa sẽ không thành công.
Theo Kissinger, « mấy người lính Việt Nam thì làm sao mà đánh lại được như là người Mỹ mà Hoa Kỳ đã huy động đến nửa triệu lính Mỹ còn không ăn thua ». Trong hoàn cảnh đó, tổng thống Nixon cứ để cho ông Kissinger tiến hành đàm phán và đại khái là ông ấy đã đánh lừa được tổng thống Nixon. Kissinger thuyết phục được Nixon là hiệp định này (Hiệp Định Paris) có lợi cho miền Nam chứ không phải là có hại cho miền Nam.
Câu hỏi là tại sao ông Nixon, một chính trị gia cáo già mà lại có thể tin được như vậy. Cái chuyện đó là như thế này và đã được chính tổng thống Nixon viết lại trong hồi ký của ông : Kissinger cứ báo cáo với tổng thống rằng Hiệp Định Paris « Chỉ là một phương cách để cho Bắc Việt giữ được thể diện thôi, chứ còn họ (Hà Nội) đã nhượng bộ hết rồi, không có gì cả ». Thì cái nham hiểm nhất ở đây là đánh lừa Nixon.
Mà dù Nixon là cáo già chính trị cũng đã tin, vì ông Kissinger quá tài ba mà tổng thống Nixon thì lại lơ là không để ý đến đàm phán. Sau Nixon, một nguy hiểm khác là Henry Kissinger cũng đã giấu tổng thống Ford khi mà ông Ford lên thay thế tổng thống Nixon ngày 08/08/1974 (ngày mà mà tôi gọi là ngày Song Bát). Ông Ford không biết gì hết.
Một ngày sau khi nhậm chức (09/08/1974) tổng thống Ford viết thư cho tổng thống Thiệu và cam kết « Tất cả những gì mà nước tôi đã hứa hẹn thì sẽ được hoàn toàn tiếp tục và sẽ được tuân thủ trong nhiệm kỳ của tôi »
RFI : Ngày 30 tháng Tư là hồi kết của chế độ Sài Gòn, với những hệ quả mà ai cũng biết. Nhưng đây cũng là một cột mốc quan trọng đối với hình ảnh và uy tín của Hoa Kỳ trong bang giao quốc tế …
GS Nguyễn Tiến Hưng : Đúng như vậy. Hậu quả của chiến tranh Việt Nam đối với Mỹ còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thứ nhất, bạn bè đồng minh của Mỹ không còn dám tin cậy vào Mỹ. Đồng minh khắp nơi đều dè dặt khi phải hợp tác với Hoa Kỳ vì sợ rằng lại trở thành Việt Nam Cộng Hòa thứ hai.
Điểm thứ nhì – và đây mới là điều quan trọng : Kẻ thù thì coi thường nước Mỹ. Sau cuộc chiến Việt Nam 1975, thì đến cuộc Cách Mạng Iran năm 1979. Iran bắt toàn bộ nhân viên của tòa đại sứ Mỹ tại Teheran, rồi đối đầu với Mỹ cho đến ngày hôm nay. Sau Iran đến Irak cũng tại Trung Đông. Tổng thống Irak Saddam Hussein đã xem thường Mỹ khi nói « Một nửa triệu quân ở Việt Nam còn chẳng làm gì được mà bây giờ còn bày đặt sang Irak để chiến đấu. Irak không phải là cái chỗ để đi picnic ! »
Thời tổng thống Bush - hình như là năm 2001 hay 2002 gì đấy, đã tiết lộ, tình báo Mỹ CIA đã chặn được lệnh của Ayman Al Zawahiri (nhân vật số 2 tổ chức Al Qaeda tại Afghanistan) cho cấp dưới của ông ấy rằng : « Những hậu quả của sự sụp đổ của Hoa Kỳ tại Việt Nam, việc họ bỏ chạy và bỏ rơi những người đã theo họ làm cho chúng ta nên suy nghĩ. Ta phải sẵn sàng ngay từ bây giờ ! ». Đến ngày 15/08/2021, cả thế giới đã chứng kiến cuộc tháo chạy ê chề khỏi Kabul.
RFI : Còn trên hồ sơ Ukraina hiện tại thưa giáo sư ?
GS Nguyễn Tiến Hưng : Về Ukraina, tôi nghĩ rằng ông Putin cũng đã thấy bài học Việt Nam khi đưa quân xâm được Ukraina năm 2022. Có khả năng rất cao tổng thống Nga quan niệm dù Mỹ có viện trợ dồi dào nhưng nếu kéo dài cuộc chiến ít lâu thì rồi Mỹ cũng phải buông tay. (…) Tuy nhiên, tổng thống Zelensky vẫn còn một phương tiện để điều đình : Hoa Kỳ đang rất cần đất hiếm của Ukraina khi mà Trung Quốc đã bắt đầu ngừng xuất cảng đất hiếm sang Mỹ (…) Zelensky có tài nguyên khoáng sản để giữ Mỹ lại một phần nào. Hơn nữa Ukraina giờ đây có cả khối Âu châu yểm trợ. 50 năm trước Miền Nam Việt Nam cô đơn một mình.
Tôi còn nhớ ngày 21/12/2022 sau khi được Quốc Hội Mỹ tiếp đón nồng hậu, ra khỏi Quốc Hội, tổng thống Zelensky trông đã rất vui vẻ. Sau đó, tôi đã chia sẻ quan điểm rằng dù có nhận được gói viện trợ hào phóng thì Ukraina cũng vẫn phải chuẩn bị cho tình huống tồi tệ nhất : Một ngày nào đó, sự yểm trợ sẽ không còn nữa. Trước Zelensky, thì tổng thống Afghanistan, Hamid Karzai cũng từng được Quốc Hội Mỹ đón tiếp, để rồi ngày bị Mỹ bỏ rơi ngày 15/08/2021.
:
GS Nguyễn Tiến Hưng : « Người Mỹ chóng chán (...) Chiến tranh kéo dài quá ba năm là họ không chịu nổi ».:RFI : Trên tất cả các cuộc xung đột vừa nêu và cho đến cuộc chiến thương mại mà chính quyền Mỹ hiện nay đang khơi mào với gần hết thế giới, những căng thẳng hiện tại với các đồng minh thân thiết nhất của Washington như Châu Âu, Canada hay Nhật, Hàn Quốc cũng như với các quốc gia mà Mỹ đã ký Hiệp Định Đối Tác Chiến Lược như Việt Nam… Ông đánh giá thế nào về khái niệm « đồng minh » trong quan niệm của Hoa Kỳ ?
GS Nguyễn Tiến Hưng : Có lẽ cái hay nhất là tôi nhắc lại câu tổng thống Thiệu khi ông ấy phản hồi về cuộc chiến. Ông nói rằng « Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó »2. Câu hỏi đặt ra là tại sao ông ấy lại nói như vậy thì có một lần tổng thống Thiệu tâm sự với tôi « Chính sách của Hoa Kỳ thì nay thế này mai thế khác biết đâu mà mò ! » 3.
Một trong những điểm mà tổng thống Thiệu không hiểu rằng thể chế của Mỹ, cứ 4 năm có cuộc bầu cử mà mỗi một lần. Có cuộc bầu cử là có sự thay đổi sâu sắc. Thí dụ như cuộc bầu cử năm 2024 vừa rồi chúng ta thấy nó thay đổi như thế nào ! Vì thế khi bang giao với Mỹ thì phải hiểu văn hóa của Mỹ và hiểu thể chế của nước Mỹ.
Về văn hóa thì người Mỹ rất chóng chán - Không cái gì trụ được quá 3 năm... một cuộc chiến kéo dài hơn ba năm thì họ không chịu được. Điển hình là cuộc chiến Việt Nam : trong giai đoạn từ năm 1965 cho đến 1968, công luận ủng hộ hết mình. Nhưng sau 3 năm thì họ chán. Cuộc chiến Ukraina cũng vậy. Đó cũng là thường tình thôi. Có chăng là Âu châu không học cái bài học cũ, và câu nói của ông Thiệu năm xưa bây giờ vẫn còn tính thời sự (…)
Về khái niệm đồng minh nó không có liên tục mà thay đổi tùy từng thời gian và tùy vào quan niệm về quyền lợi của Hoa Kỳ. Thí dụ như ngày 14/04/2024 trên đài PBS tổng thống Zelensky tuyên bố với nữ ký giả Amna Nawas : « Tôi có thể nói thẳng với bà rằng nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể nào chiến thắng. Có nghĩa là chúng tôi sẽ thất bại ».
Nghe câu này tôi lập tức nhớ lại lời ông Nguyễn Văn Thiệu. Tuyên bố cũng với nữ ký giả tên là Oriana Fallaci tháng 1/1973. Ông Thiệu nói : « Thưa bà, nếu Mỹ bỏ rơi thì đối với chúng tôi đó là sự kết thúc : sự kết thúc hoàn toàn, sự kết thúc tuyệt đối ». Chỉ cần thay hai cái tên Zelensky bằng Nguyễn Văn Thiệu thì toàn bộ ngữ điệu nội dung và tâm thế gần như không thay đổi. Lịch sử như đang đã lập lại, nó chỉ hơi khác là khác về nhân vật và địa danh thôi.
« Word should be gotten to Nixon that if Thieu meets the same fate as Diem, the word will go out to the nations of the world that it may be dangerous to be America's enemy, but to be America's friend is fatal » (Kissinger 11/1968)]
RFI : Vậy phải chăng, luôn
có một sự xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ít ra là từ nửa thế kỷ qua thưa giáo sư ?
GS Nguyễn Tiến Hưng : Lord Palmerston (thủ tướng Anh trong giai đoạn 1859-1865) đã từng nói : Nước Anh chẳng có bạn vĩnh viễn và cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn. Vì cơ duyên lịch sử tôi đi du học ở Hoa Kỳ từ năm 1958 nên đã chứng kiến tất cả cuộc chiến tranh Việt Nam từ tổng thống Eisenhower rồi đến Kennedy, Johnson, Nixon và sau cùng là Ford. Nghiên cứu mấy chục năm nay thì thấy rõ rằng Mỹ luôn đặt quyền lợi của mình trên hết. (...)
Lý do quan trọng nhất để Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến Việt Nam đó chính là vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Vì muốn giữ địa vị là siêu cường số một của thế giới cho nên phải ngăn chặn Trung Cộng với chính sách gọi là containment of red China - ngăn chặn Trung Cộng đỏ.
Khi Mỹ tháo chạy thì lý do quan trọng thứ nhất cũng chỉ vì quyền lợi của Hoa Kỳ, vì Việt Nam không còn quan trọng nữa khi ông Nixon mở được cửa Bắc Kinh:
.
Khi Nixon nối lại bang giao với Bắc Kinh, mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu. Cũng như là sau Thế Chiến Thứ Hai, quyền lợi của Mỹ khi xây dựng NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) là để có một thành trì vững chãi ở bên kia Đại Tây Dương, ngăn chận Liên Xô. Bây giờ Liên Xô đã chụp đổ và Chiến tranh lạnh không còn nữa thì NATO không còn quan trọng nữa. Do vậy bài học chính yếu là phải tự trông cậy vào mình chứ không thể nào trông cậy vào người ngoài mãi mãi.
:[b]GS Nguyễn Tiến Hưng : « Khi Nixon mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu »RFI : Trân trọng cảm ơn Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng.
*****
Trong Lời Mở Đầu cuốn « Bức Tử VNCH - Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm », tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhắc lại hai sự kiện diễn ra cách nhau đúng nửa thế kỷ : « Năm 1972, tiến sĩ Kissinger, cố vấn tổng thống Nixon nên bỏ rơi Miền Nam Việt Nam và đổ cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa ‘kém cỏi’ » (tr.23).
Năm mươi năm sau, tại Diễn Đàn Davos -Thụy Sĩ, cũng ông Kissinger « công khai đề nghị Ukraina phải nhường ngay một phần lãnh thổ cho Nga và chấp nhận một số điều kiện của Nga ».
Đến những trang cuối cuốn sách, tác giả trích dẫn thêm quan điểm của Henry Kissinger : « Đừng làm Nga mất mặt (…) nếu không thì sẽ có thể có những xáo trộn không thể giải quyết được (…) và đừng quên Nga là một thế lực mạnh mẽ tại Âu châu » (tr. 452).
Theo RFI
______________________
Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập (1986) đồng soạn thảo với nhà báo Jerrod Schecter ; Khi Đồng Minh Tháo Chạy (2005) , Tâm Tư Tổng Thống Thiệu (2010), Khi Đồng Minh Nhảy Vào (2016). Bức Tử VNCH Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm, NXB Hứa Chấn Minh.
Theo giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tâm sự với bà Anna Chennault, một nhân vật thân tín của tổng thống Nixon, trong một cuộc gặp tại Đài Loan sau khi ông Thiệu rời Sài Gòn năm 1975.
Lời tổng thống Thiệu khi gặp lại phụ tá của ông là giáo sư Nguyễn Tiến Hưng tại Luân Đôn, Anh Quốc, năm 1976.