« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! »
… Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện.
Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…
Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…?
Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Khái niệm về chằn được hiểu là những sinh vật có sức mạnh thể chất, hình tướng hung dữ, sở đắc nhiều tài phép biến hóa khôn lường, phẩm chất thiện ác tùy thuộc vào từng loại khác nhau, cũng có thể biến đổi đến chỗ hoán đổi xấu tốt vô lường… tùy không gian, tùy cảm hứng tự thân, tùy hoàn cảnh và lịch sử văn hóa.
Ta gọi chung là chằn tinh, nhưng nguồn gốc thì có ba loại:
1/ A Tu La Asura
2/ La Sát Rashashi
3/ Dạ Xoa Yaksha và có Dạ Xoa nữ.
Trong văn hóa Bà La Môn, cả ba loại này đều có phẩm chất khác (nghĩa là có xấu, có tốt) khi chúng được phật giáo hóa.
Atula – Asura
Atula được biết nhiều, thấy nhiều trong các bản khắc miêu tả cảnh khuấy sữa, gốc từ thần thoại Ấn Độ và ở quốc gia còn chịu ảnh hưởng Ấn Độ như ở di tích Angkor, Angkor Wat, Angkor Thom bên cạnh thần thoại Khmer.
Trong tín ngưỡng Indou, Atula có lúc mang ý nghĩa như bậc thần thánh, siêu phàm, có lúc được kể như linh hồn hay bậc thần linh tối cao. Có lúc lại kể như kẻ quỷ quái hay kẻ thù địch Vệ Đà, có một Atula được mang tên là Bình Minh là mang ý tốt lành, và thần Indra (gọi là Đế Thiên) là người chỉ huy các Deva đó. Chỉ huy các Atula đó.
Nói chung khởi thủy các Atula đều giỏi giang và có phẩm chất đạo đức tốt, dần dần va chạm nhau, trở nên ngạo mạn và tự phụ, rồi thách thức cả chư thiên… những mâu thuẫn này cho ra hiện tượng sấm sét. Có hai Atula là Ramasua và Mêkhala giành nhau một viên ngọc quý do một bát sữa cô đọng lại mà thành. Cứ mỗi lần trời chuyển mưa, Mêkhala bay lên không trung tắm liền bị Ramasua tung búa lên đánh, hai lưỡi búa đập vào nhau tóe lửa, phát ra tiếng nổ kinh hồn. Họ bảo rằng hiện tượng sấm sét thường xuyên do hai Atula đánh lộn mà ra.
La Sát – Rashashi
Có nhiều từ ngữ và tính cách mô tả La Sát, theo đặc điểm và hành vi, La Sát Araras là kẻ giết người, kẻ hay xúc phạm và làm tổn thương, cũng là kẻ ăn cắp đồ cúng hiến, La Sát này rất tráng kiện và khỏe mạnh trong lúc chạng vạng tối. Chúng là loại tham ăn, háu ăn. Chúng có một số phép thần thông là bay lượn hay biến mất, hay tăng giảm kích cỡ thân hình. Loại La Sát này rất đa dạng. Có La Sát hai chân, có loại La Sát ba chân hay bốn chân. Có lúc La Sát là một con mèo, một con chó, một con trăng hay con ngựa hoặc một con voi.
Nói chung, đa phần các La Sát là ác, nhưng cũng có những La Sát hoàn thiện. Tính chất hai mặt này thấy ít nhiều trong kinh văn phật giáo, có nghĩa là có những La Sát quay đầu lương thiện sau khi được nghe phật pháp. Đó là trường hợp La Sát Ravana đã thỉnh phật thuyết pháp, và cuộc thuyết giảng này được ghi chép thành Kinh Lăng Già, kinh Lankavatara. Lấy tên núi Lanka đặt tên cho kinh. Núi này ở biển Nam Hải, cao chót vót nhìn xuống biển cả mênh mông, mô tả này để hành giả hình dung ra đó là một hòn đảo, La Bà Na hung ác đã biết dành sự tôn kính cho Như Lai sau khi nghe thuyết giảng. Thoạt khởi đầu chỉ là họ tò mò mà tới quan sát chư phật xem phật nói gì.
Dạ Xoa – Yaksha
Tiếng Việt gọi là Dạ Xoa, xấu như quỷ Dạ Xoa chẳng hạn, trong các ngôn ngữ, có nhiều tên gọi khác nhau, tiếng Sanskrit gọi là Yaksha, tiếng Pali là Yakkha, tiếng Hoa gọi là Ycha, Khmer gọi là Yăk… về giới tính, có Dạ Xoa nam, Dạ Xoa nữ.
Dạ Xoa vốn là tên gọi chỉ một loại nhiên thần có Dạ Xoa xấu, cũng có Dạ Xoa đẹp, rất đẹp. Chứ không phải người ta hay nói xấu như quỷ Dạ Xoa!
Thường thần thoại coi Dạ Xoa là kẻ nhân từ, chuyên trong coi các kho tàng châu báu trong hang hốc, các kho tàng tự nhiên ẩn trong đất vùi trong rễ cây.
Dạ Xoa này được mô tả nhiều trong các thần thoại Hindou giáo và kinh văn phật giáo.
Trong thần thoại Hindou và cả phật giáo, Dạ Xoa có cá tính kép, một mặt là vị tiên cô xinh đẹp vô thưởng vô phạt gắn kết với núi rừng.
Nhưng bên cạnh cô tiên xinh đẹp đó, còn có một kiểu Dạ Xoa nham hiểm ở những nơi hoang vu, vắng vẻ, thường rình rập để ăn thịt lữ khách, như phù thủy ăn thịt bà cháu cô bé quàng khăn đỏ vậy. Dạ Xoa này khởi điểm là những bà La Sát bảo vệ rừng và đồi núi hoang vu, sau đó được quan niệm như các vị thần giám sát trần gian và của cải nơi họ tá túc.
Dạ Xoa nam và Dạ Xoa nữ, cả hai đều là những người hầu cận canh giữ của cho vị thần tài Ấn Độ rất xa xưa, tên gọi Kubera trong kinh Vệ Đà, Kubera là vị thống soái cai quản quỷ và các thần linh sống trong bóng tối. Tức là một vị Diêm Vương. Sau này, Kubera cũng được hiểu một nghĩa khác là ông thần tài, vì trong đất có nhiều của cải cung điện của Kubera ở trên dẫy Himalaya, trong một khu vườn của ngọn núi Tu Di sơn, ngọn núi cao của trung tâm vũ trụ Me Ru (= núi Tu Di) cha con Kubera làm chúa tể các kho báu, của cải, quý giá và được làm vua xứ Lanka (được gọi là Tích lan, Srilanka) sau Kubera có một em trai, rồi gia đình xích mích xô xát vì các cô La Sát xinh đẹp.
Tất cả thần thoại ở các quốc gia Ấn hóa ở Đông Nam Á, tín nhiệm về Yaksha thâm nhập sâu sắc và bắt nguồn từ truyện kể các chằn, La Sát, Dạ Xoa của sử thi Ramayalia. Sử thi này lưu truyền sang Nam Việt Nam, được coi là sáng tác văn học nền tảng Miến Điện, Lào, Khmer, Thái Lan… tất cả không phải là một nền văn học để kể, nghe và đọc; mà còn từ đó tạo ra các sản phẩm sân khấu, các hình thức diễn tuồng dân gian và tạo dựng nên vô vàn các tác phẩm điêu khắc, trang trí, hội họa giá trị, thâm nhập khá đậm đà vào tâm thức cộng đồng miền Nam Việt Nam… Ấn tượng là hình ảnh cô Dạ Xoa có lúc được nhắc tới lui nhiều lần trong dân giả…
Yaksha cũng được coi là thuộc hạ, tay chân của ông thần tài. Ở Đông Nam Á Yaksha nhận vai trò canh giữ đền chùa, tháp. Là một hình ảnh rất đẹp về mỹ thuật, kiến trúc và cả lịch sử.
Ở một khía cạnh khác, sâu sắc hơn, là tính chất hai mặt khác biệt của chằng tinh, dù là A Tu La, hay La Sát hay Dạ Xoa được lưu giữ trong tín lý phật giáo với những biểu hiện thiện ác khác nhau thì A Tu La hay La Sát cũng được coi là một loại chúng sanh. Một loại chúng sanh mà có lúc gặp duyên biết hồi đầu hướng thiện bơi vào bờ!
Nhìn, nghe toàn cảnh thế giới chúng ta hôm nay, thiệt hỗn loạn rối ren như chưa từng bao giờ có.
Cầu mong sao các La Sát người và các Dạ Xoa, A Tu La người trần thế này, sẽ có lúc phát khởi có hai mặt hoán đổi và biết làm lành tránh dữ như chằng tinh xa xưa…
Cầu mong lắm thay!
Nam Mô Bái Bạch kinh Lăng Già Lankavatara
Paris vào thu 2025
Chúc Thanh