Các quốc gia trên thế giới đều có mâu thuẫn và đấu tranh nội bộ gay gắt, không
nơi nào không có, thậm chí “đấm” nhau trong nghị trường, nhưng khác Việt
Nam ở chỗ, nó diễn ra công khai.
Trong tình cảnh quê hương Việt Nam hiện nay, khi cảnh nhiễu nhương diễn ra
ngày càng đáng ngại trong xã hội giữa lúc Phương Bắc tỏ ra kiên quyết “Nam
tiến”, xem chừng như đây là một trong những giai đoạn lịch sử mà những
người dân Việt có tâm huyết với đất nước nhắc thường xuyên tới vận nước để
rồi âu lo cho sự tồn vong của dân tộc.
Và nỗi niềm đó có lẽ cũng thuộc trong lý do để tác giả Nguyễn Thị Từ Huy “một
lần nữa trở lại với hai chữ ‘đất nước’ ”, và tin rằng “hai chữ này sẽ còn được
nhiều người Việt Nam nói đến, nó sẽ còn là nỗi ám ảnh của người Việt đương
đại” chúng ta.
“Để tang nước”
Trong bài tựa đề “Để tang nước”, tác giả Nguyễn Thị Từ Huy chất chứa nỗi
niềm với quê hương qua việc phân tích danh từ kép “đất nước”, lưu ý rằng yếu
tố “nước” dù đứng sau “đất” nhưng không kém phần quan trọng hơn “đất”.
Tại sao? Bởi vì trong hai chữ “đất nước” ấy, nếu “đất” đứng riêng ra thì không
còn mang ý nghĩa “đất nước”, nhưng “nước” đứng riêng vẫn bao hàm trọn vẹn
ý nghĩa “lãnh thổ quốc gia”, như “nước Việt Nam”. Rồi tác giả tâm sự:
“Quan sát phản ứng của đa số dân chúng Việt Nam hiện nay, ta có cảm giác
rằng dường như nước không còn giữ được cái giá trị tinh thần đặc biệt mà nó
từng có đối với người Việt trong lịch sử. Trong khi 23 ngàn con tàu của Trung
Quốc giày xéo gương mặt bà mẹ Biển Đông (người Việt vẫn ví lòng mẹ bao la
như biển, nhưng biển còn là ẩn dụ kép về cả người mẹ và người cha, vì biển là
nơi cư trú của Lạc Long Quân và 50 người con) thì hầu như đa số người Việt
biểu lộ ra ngoài một sự bình thản khó hiểu. Một số vô cùng ít ỏi trên toàn bộ
tổng số gần 90 triệu người ôn hòa bày tỏ giông tố trong lòng họ lại gặp phải sự
đàn áp và sự bôi nhọ không thể giải thích nổi từ phía chính quyền, và sự thờ ơ
không thể nào hiểu nổi từ phía đồng bào của họ.”
Rồi tác giả dự báo cảnh tang tóc khó tránh khỏi phát xuất từ “hoạt cảnh bắt bớ
nồi da xáo thịt, những người lương thiện, những người yêu nước bị kết tội
hàng ngày”. Và cảnh tang tóc trên quê hương VN cũng được dự báo bởi tình
trạng mà tác giả báo động là “hỗn loạn khắp mọi lãnh vực” trong xã hội Việt
Nam, để rồi tác giả chứng kiến:
“Trên khoảng trời mà mắt tôi bao quát được tôi nhìn thấy những cảnh đang náo
hoạt cuộc sống của chúng tôi hiện nay. Thanh trừng nội bộ hay kịch bản của
ngoại bang?”
Qua bài “Từ chỗ đứng người dân nhìn về thời sự đất nước”, tác giả Hạ Đình
Nguyên nêu lên nghi vấn rất cần phải được giải đáp về tình trạng “Đấu tranh
phe phái nội bộ của giới lãnh đạo chóp bu để tranh giành quyền lực, hay đấu
tranh chống thế lực tiêu cực tham nhũng đang khuynh loát nền kinh tế quốc
gia, cái nào là mục tiêu chính, do thế lực nào trong Đảng dẫn dắt, nó sẽ diễn
biến tới đâu là điểm dừng, và chịu sự tác động nào trong bối cảnh Việt Nam
đang đứng trước miệng hùm Bắc Kinh”.
Giữa lúc công luận ngày càng đặc biệt đề cập tới điều họ tin rằng cuộc tranh
giành quyền lực trong nước đang diễn ra, tác giả Hạ Đình Nguyên trích dẫn lời
giáo sư Carl Thayer thuộc Học Viện Quốc Phòng Úc nhận định rằng “Kể từ khi
theo đuổi chính sách đổi mới với mức tăng trưởng kinh tế cao, Nhà nước trở
nên mạnh hơn Đảng. Tăng trưởng cao do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cổ xúy,
kéo theo sự bùng nổ các hoạt động thương mại vượt quá tầm và khả năng
quản lý hiệu quả. Sự suy yếu bộc lộ rõ, ít nhất là trong lãnh vực tài chánh, ngân
hàng. Mặt trái đó của chính sách khiến nhiều người trong đảng sợ mất kiểm
soát để ổn định chính trị. Đợt phê bình và tự phê bình hy vọng kéo lại quyền lực
cho đảng để kiểm tra, giám sát chính quyền hiệu quả hơn”.
Và tác giả Hạ Đình Nguyên nhận thấy “Nếu không phải là cuộc đấu đá của các
cá nhân trong giới chóp bu, thì chính là sự đấu tranh quyền bính giữa các thế
lực trong đảng và trong chính quyền”. Sau khi lưu ý rằng VN hiện nay đặc biệt
chỉ có một đảng thì phải đấu tranh với nhau chứ còn đấu với ai khác, tác giả
nhận xét:
“Các quốc gia trên thế giới đều có mâu thuẫn và đấu tranh nội bộ gay gắt,
không nơi nào không có, thậm chí “đấm” nhau trong nghị trường, nhưng khác
VN ở chỗ, nó diễn ra công khai, có cơ quan độc lập làm trọng tài, rộng hơn nữa
là trọng tài dân chúng giám sát và phản ánh qua lá phiếu tín nhiệm trong bầu
cử. Họ đấu tranh với nhau trên những đường ray pháp lý thiết lập sẵn, không ai
được phép đi trệch khỏi đường ray đó. Vì thế không sinh ra những tay sát thủ
trong bóng tối, những cuộc thanh trừng hàng loạt của phe cánh, kéo theo các
đổ vỡ xáo trộn xã hội. Đồng thời cũng không có sự nhập nhằng đổ vấy trách
nhiệm cho nhau.”
Đó là vấn đề liên quan đến các quan, còn người dân thì sao? Theo tác giả Hạ
Đình Nguyên thì nhân dân thực sự không quan tâm việc quyền lực nằm trong
tay ai – trong tay Đảng hay Chính quyền. Lý do dễ hiểu là người dân Việt hiện
giờ “không thể phân biệt được giữa ‘2 người’ đó”, khi mà tác giả nhận thấy sự
đổi chỗ cho nhau giữa Đảng và Chính quyền tuỳ thuộc vào tình thế, hay có thể
là “một loại nghệ thuật có tính toán về việc “hoán chuyển quyền lực”. Cho nên
người ta hầu như luôn thấy hai cụm từ đi đôi là “Đảng-Nhà nước/Nhà
nước-Đảng”. Và tác giả Hạ Đình Nguyên khẳng định:
“Trong cuộc đấu tranh quyền bính giữa Đảng và Nhà nước, người dân không
tham gia, đứng ngoài cuộc. Nhân dân chỉ đi theo lực lượng nào giữ được độc
lập dân tộc và đưa đất nước đến dân chủ, tiến bộ .Việc đấu tranh chống tham
nhũng luôn luôn đúng, đặc biệt là đối với người dân. Nhưng nó không thoát
được ảnh hưởng của đấu tranh nội bộ. Bên trong và đằng sau của sự chỉnh
đốn này là gì? Cái khác nhau cơ bản của các phe phái trong bóng tối là gì? Hay
chỉ là sự đổi ngôi nhóm quyền lực cai trị? Xu hướng nào đấu tranh cho độc lập
và dân chủ? Xu hướng nào có nguy cơ đưa đất nước đến độc tài lệ thuộc, mất
chủ quyền vào tay ngoại bang? Nếu không giải quyết dứt khoát về một cơ chế
xã hội tiến bộ, thì cả xương máu của nhân dân đều đổ sông đổ biển, chỉ là thay
nhóm này bởi nhóm tiêu cực khác không hơn kém.”
“Xâu xé quyền lực”
Từ cảnh gọi là “xâu xé quyền lực” ở VN, tác giả không khỏi liên tưởng đến “mô
hình TQ” tương tự kể từ khi Mao Trạch Đông nắm quyền cai trị toàn cõi Hoa
Lục hồi năm 1949, mà theo tác giả, chung quy vẫn là “hậu quả của một cơ chế
không có pháp quyền”. Và tác giả nêu lên câu hỏi rằng “Những ‘đau đớn’ mà
nhân dân cả nước đang phải gánh chịu từ sự suy thoái và đổ vỡ ngày hôm nay
sẽ có được bù đắp bởi một tình hình sáng sủa hơn, trong chủ đích bảo vệ nền
độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ và phát triển
bền vững hay không?
Cảnh nhiễu nhương “xâu xé quyền lực” khiến blogger Hiệu Minh không khỏi
thốt lên rằng “ Sự đồn đoán về đấu tranh phe phái hoàn toàn có thể hiểu được,
vì dân chúng bức xúc về tham nhũng, đạo đức xuống cấp, kinh tế mong manh,
dễ đổ vỡ. Người ta thì thào về tài sản của người này người kia, do đâu mà có, ai
đó chuyển ra nước ngoài hàng tỷ đô la”.
Như vậy câu hỏi có lẽ cần được nêu lên là làm sao để người dân không phải “
đồn đoán về đấu tranh phe phái” hay “thì thào về tài sản” bất chính của các
quan trong nước như hiện nay, làm sao để dân chúng không tìm tới “tin vỉa hè”,
đặc biệt là liên quan tới “thâm cung bí sử” của giới cầm quyền, khi họ không
thể tìm đâu ra sự thật, nhất là không thể tin được ở hệ thống thông tin “lề
phải”? Tổng Cua Hiệu Minh đề nghị:
“Để đấu lại với cuộc chiến thông tin trong một thế giới toàn cầu hóa đầy cơ hội,
thách thức và chứa đựng cả hiểm họa, những nhà quản lý thông tin, truyền
thông của Việt Nam cần có một tư duy khác về đa chiều, về báo chí mở, minh
bạch trong chính phủ và dân chủ thông tin.”
Qua bài “Tự do báo chí”, blogger Huỳnh Ngọc Chênh mở đầu rằng “ Trước đòi
hỏi của người dân, trước áp lực của sự hòa nhập vào cộng đồng thế giới văn
minh, nhà cầm quyền Việt Nam không thể ngăn cấm triệt để quyền tự do ngôn
luận của người dân. Không kể đến những trang web từ bên ngoài, từ vài năm
trở lại đây, hàng loạt trang web và blog cá nhân với những quan điểm chính trị
khác biệt và khác với quan điểm được định hướng của nhà cầm quyền đã ra
đời và tồn tại”. Những trang mạng tư nhân ấy ngày càng lớn mạnh và trở thành
phương tiện thông tin hữu hiệu mà nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh gọi là “báo lề
dân với cái nhìn đa diện đã mang đến cho người dân những thông tin đa chiều
và nhờ vậy, sự thật được tiếp cận”. Và nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh nhận thấy:
“Không có báo lề dân, hàng loạt vụ án chính trị bị bưng bít hoặc bị đưa tin sai
lệch, hàng loạt vụ bắt bớ mờ ám không được công khai đưa ra dư luận, bao
nhiêu nỗi oan khiên bị nhấn chìm vĩnh viễn vào bóng tối… Không có báo lề dân
làm sao mọi người biết được câu nói của giám mục Ngô Quang Kiệt bị cắt xén,
xuyên tạc ra sao bởi hệ thống báo lề phải và danh dự bị xúc phạm của vị giám
mục ấy làm sao được rửa sạch. Không có báo lề dân làm sao mọi người biết
được mặt trái của vụ bắt bớ và xét xử vi hiến TS Cù Huy Hà Vũ. Không có báo lề
dân làm sao mọi người biết được đài truyền hình Hà Nội đã nhiều lần xuyên tạc,
vu khống, bôi nhọ những người biểu tình yêu nước chống Trung Quốc xâm
lược. Không có báo lề dân làm sao người dân biết được những âm mưu nham
hiểm của Trung Quốc trong chiến lược từng bước xâm chiếm VN bằng bạo lực
quân sự lẫn diễn biến hòa bình thông qua quan hệ bất bình thường giữa cái gọi
là hai đảng anh em. Không có báo lề dân thì âm mưu thâu tóm ngân hàng và
lũng đoạn tài chánh của các nhóm đặc quyền làm sao được phơi bày ra trước
công luận. Báo lề dân cũng góp phần vào việc vạch trần tội ác và sai trái của
bọn cường hào ác bá mới đang ra sức thâu tóm đất đai, đẩy người nông dân
vào cảnh khốn cùng.”
Nhưng nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh không quên lưu ý về một số trang cá nhân
tự phát “lệch lạc, quá trớn, vô trách nhiệm”, “đăng những thông tin như một
dạng tin đồn, hoàn toàn thiếu kiểm chứng” – mà tác giả vào chi tiết hơn, “như là
các tin đồn về những chuyện mờ ám cấp cao, về bí mật cung đình, về đấu đá
nội bộ cấp cao, về sự lũng đoạn của các nhóm đặc quyền… thường thu hút sự
tò mò của công chúng. Đó là hệ quả tất yếu của một xã hội bất minh, sự thật bị
che dấu, sự dối trá lên ngôi và quyền được thông tin của người dân không
được tôn trọng.”
Source: RFA