Trong việc đóng góp những viên đá đầu tiên xây dựng lâu đài văn học chữ quốc ngữ hồi đầu thế kỷ XX phải kể Nguyễn Hữu Tiến (1875-1941) của tờ Nam Phong là một trong những kiến trúc sư tâm huyết nhất và tài ba nhất.
Đối với văn học Việt Nam ngoài những thiên khảo cứu và giới thiệu như Cổ Xúy nguyên âm, Giai nhân di mặc… ông còn là dịch giả một tác phẩm văn học đời Lê mạt có tên là Vũ Trung tùy bút (Tùy bút viết trong mưa) của Phạm Đình Hổ (1768-1839).
Vũ Trung tùy bút vốn được trân trọng vì phản ánh được sinh hoạt về văn hóa và xã hội của thời Lê mạt-Nguyễn sơ. Hơn nữa, nó lại là thiên tùy bút đầu tiên trong văn học Việt được viết bằng văn phong tài hoa và duyên dáng của một kẻ sĩ uyên bác.
Phần sau đây trích trong bản dịch Vũ Trung tùy bút của Nguyễn Hữu Tiến để thấy bút pháp dịch thuật chuẩn xác và sáng sủa của nhà văn đầu đàn của nhóm Nam Phong và cũng biết thêm về gia thế của đại thi hào Nguyễn Du, hy vọng sẽ cho chúng ta hiểu thêm về ảnh hưởng thời đại và gia cảnh của đại thi nhân trưởng thành tại Thăng long trong một gia đình quyền quý vùng Tiên điền.
Nhà họ Nguyễn ở Tiên ĐiềnÔng Nguyễn Nghiễm người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, xứ Nghệ vốn là một bạch đinh khi tuổi trẻ đã đỗ tiến sĩ, làm quan trải các đại bộ, rồi vào tham tụng chốn phủ đường, hơn mười năm mới về trí sĩ sau lại được triệu ra làm quan. Năm Giáp Ngọ đời Cảnh Hưng do chức Đại tư đồ Xuân quận công xưng làm Bình nam tả tướng quân, khi mất, được phong phúc thần, vinh hiển đến thế là cùng. Con trai trưởng là Nguyễn Khản cũng là bậc phong lưu tiến sĩ. Khi ông Khản đỗ, được tứ yến ở Lễ bộ đường thì quan Tư đồ là Nguyễn Nghiễm được làm quan Lễ thị, tự tay gài bông hoa mũ cho con. Thật là một sự hiếm có đương thời thường truyền tụng. Khi chúa Trịnh Thịnh Vương (Trịnh Sâm) còn ở Lương quốc phủ, thì ông Nguyễn Khản làm Phiên liêu, hằng ngày được vào hầu yến trong nội cung Thịnh Vương, thân thiết xem như bạn áo vải. Năm Đinh Hợi phong cho ông Khản làm Tri phiên liêu kiêm quản Nhất hùng cơ, tước là Kiều nhạc hầu. Khi ấy, trong nước bình an vô sự; Trịnh Vương lại thích đi ngự chơi, lúc đi thưởng hoa, lúc đi câu cá, thế nào cũng có ông Nguyễn Khản cùng đi. Khi trở về thì lại mặc áo chẽn tay hẹp, ra vào nơi cung cấm, nhà chúa đặc ban cho ông được đi lại ra vào không khác gì quan Nội giám. Khi chúa Trịnh thưởng ca, thường sai Nguyễn Khản ngồi hầu, ông được đội khăn lương mặc thường phục ngồi ngay bên cạnh, cầm chầu, điểm hát. Những ngày rỗi chúa Trịnh lên ngự chơi Tây hồ, kẻ thị thần vệ sĩ bầy hàng quanh cả bốn mặt hồ, nhà chúa chỉ cùng với bà Đặng Tuyên Phi cùng ngồi trên thuyền mà Nguyễn Khản thì ngồi hầu ngang trước mặt, cùng thưởng lãm cười nói, không khác gì bạn bè người nhà. Trong cung có bày bể cạn núi non bộ và cảnh hoa đá gì, đều phải qua tay ông Nguyễn Khản sửa sang thì mới vừa ý nhà chúa. Nhà chúa lại thường sai ông đi sửa sang các hành cung ở Châu Long, Tử Trầm, Dũng Thúy. Ông có tài đục nặn núi đá, vẽ vời phong hoa, nên thường được nhà chúa ban khen. Ông lại thích nghề hát xướng, sành âm luật, thường đặt những bài hát nhạc phủ ra làm điệu hát mới, viết xong bài nào thì những nghệ sĩ ngoài giáo phường tranh nhau truyền tụng. Ta có câu thơ rằng: Án phách tân truyền lại bộ ca (nghĩa là gõ phách truyền tụng bài hát mới của quan lại bộ) chính chỉ việc ấy. Ông Nguyễn Khản khi đang làm quan thường xin phép nghỉ ở nhà, chúa Trịnh có đưa cho bài thơ nôm rằng:
Đã phạt năm đồng bò lỗi chầu,
Lại phạt năm đồng bỏ thiếu câu.
Nhắn nhủ ông bay về nghĩ đấy,
Hãy còn phạt nữa chửa thôi đâu.
Vì khi ấy buổi ngoại chầu và buổi ngự câu, ông đang lúc nghỉ, không tới hầu ngự được, nên đều bị phạt năm đồng. Nguyễn Khản có họa lại bài thơ ấy rằng:
Váng vất cho nên phải cáo chầu.
Phiên chầu còn cáo lọ phiên câu.
Trông ân phạt đến là thương đến.
Ấy của nhà vua chứ của đâu.
Chúa Trịnh lấy làm khen. Một ngày kia, trong nhà Nguyễn Khản bày yến tiệc thiếu chè uống. Chợt quan Trung sứ có việc ra nhà ông, ông không kịp làm tờ khải, chỉ viết tay mấy chữ rằng: “Thần Khản khất trà nhất lạng”. Quan Trung sứ đem về dâng, chúa Trịnh ban cho một hòm chè. Được ít lâu ông được vào tham tụng phủ đường. Cha con cùng ở tướng phủ, xưa nay chưa có thế bao giờ.
Nhà ông Nguyễn Khản ở phía nam chùa Bích Câu, phía tây thì thuộc chùa Tiên Tích, chùa ấy nguyên là của bà Hoàng Chính phi tiến cung. Thường khi ngự giá ra chơi, Trịnh Vương chỉ đi một chiếc thuyền nhỏ, từ cừ Long Lâu ra hồ Tiên Tích rồi đến nhà Nguyễn Khản. Khi vào nhà, chúa hỏi thăm cả đến vợ con, yêu mến Khản không ai bằng. Hồi ấy, con trai đầu lòng nhà chúa là Tông Quận Công ra học ở nhà quan Nội phó Hàn quận công Nguyễn Phương Đĩnh. Ông Nguyễn Khản và ông Lý Trần Thản được sang làm quan tả hữu tư giảng. Sau Lý công mất, ông chuyên một mình làm chức tư giảng. Đến khi bà chính thất ông là Huy phu nhân mất, thì sự tin yêu của nhà chúa đối với ông cũng kém dần, ông phải xin cáo quan về cư tang quan Tư đồ, rồi lại được phụng mệnh triệu ra đổi sang vũ ban. Khi ấy nhân có cái mật án của thế tử năm Canh Tý, kẻ gia thần là Tuân Sinh Hầu, Khê Trung Hầu đều bị giam chết ở trong ngục. Nguyễn Khản cùng Hàn quận Công đều bị liên đới phải giam. Nhà chúa mới giơ cái thiếp xin chè của ông ra cho các quan xem, tỏ ý bảo ông là người ngạo mạn, vô lễ. Mùa đông năm Nhâm Dần, quân Tam phủ nổi lên làm loạn, giết quan Thự phụ là Diên quận Công, lập Đoan Nam Vương là Trịnh Tùng lên làm chúa. Khanh quận Công và tham tụng Tứ Xuyên Hầu, giám ban Diêm quận Công đều bị tội. Nguyễn Khản vì là quốc sử nên lại được nhắc lên làm Lại bộ thượng thư, vào tham tụng, ban cho tước Toản quận Công, em là Nguyễn Điều cũng được nhắc lên quyền chức Đô đốc phủ sự Điều nhạc hầu, hai anh em cũng ở chính phủ. Nhưng quân lính không phục, binh tam phủ lại nổi lên làm loạn, phá nhà ông Nguyễn Khản và ông cậu chúa là quan Trung úy cai quản Dương hầu quyền thự phủ sự, giết mất người thủ hiệu tạo sĩ là Chiêm Trung Hầu. Nhà chúa bất đắc dĩ phải bổ Nguyễn Khản ra kiểm lĩnh Sơ Tây, Hưng Hóa hai trấn. Ông cùng bèn với quan Trấn thủ Sơn Nam là Thạch quận Công Hoàng Phùng Cơ mưu mộ kẻ nghĩa sĩ Tứ Tuyên đem vào giết quân kiêu binh. Quân tam phủ biết tin trên, làm huyên náo ồn lên, có cơ nguy đến Trịnh súy phủ, mưu của Nguyễn Khản phải thôi. Năm Bính Ngọ lại gặp quốc biến, quân Tây Sơn ra bắc, vua Chiêu Thống lên nối ngôi. Đến sau quân Tây Sơn kéo về. Sau Nguyễn Khản mới lại đem quân Cần vương vào chầu nhà vua, rồi bị bệnh mất ở kinh, khi ấy ông em là Nguyễn Điều mất đã lâu rồi.
Quan Tư đồ Xuân quận công có khi về chơi xứ Nghệ, một đêm nằm mộng thấy một người đàn bà vào kêu van rằng: “Nay con sắp đến kỳ sinh đẻ, xin để mẹ tròn con vuông thì đều là nhờ ơn tướng công cả”. Sáng sớm, ông thức dậy thấy có người mang biếu con cá chép to. Thấy con cá ấy đang chửa, ông liền sai thả ra, về sau lại nằm mộng thấy người đàn bà ấy đến tạ ơn. Nay họ Nguyễn ở Tiên Điền không dám ăn cá chép, là vâng lời răn của ông vậy.
Ông anh Xuân quận Công là Nguyễn Huệ làm đến Tham chính rồi mất. Khi Trịnh Nghị Tổ (Trịnh Doanh) vào tây chinh có nằm mộng thấy một ông quan văn chít khăn lương mặc áo thanh cát, đem năm trăm gia đinh vào bái yết. Chúa Trịnh hỏi, thì người ấy thưa rằng: “Tôi là Tham chính Nguyễn Huệ, nghe tin nhà chúa ngự giá vào tây chinh, xin đem gia đinh đi theo hầu”. Chúa gật đầu, tỉnh dậy bèn phong cho vương tước, lại truy phong cho làm trung đẳng thần.
Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông cư tang quan Tư đồ, ngày rỗi cũng vẫn sai con hát đồ khúc gọi là “ngâm thơ nôm”. Bọn con em họ quí thích đều bắt chước chơi bời, hầu như thành thói quen. Xét đời ông Khản phong lưu phú quí, như thế thật là rất mực. Thế mà khi ông quản binh, thì kẻ thuộc binh lại không phục, làm ồn lên toan xông vào giết ông, ông phải trốn vào trong nội phủ, nhà chúa phải đổi người cai quản khác, ông mới được thoát. Sau ông lại bị nhục với bọn kiêu binh, họ đến phá nhà. Còn như sự được sự mất lúc cùng lúc thông nó cũng ẩn nấp dựa dẫm với nhau, ấy cũng là mình tự gây nên, hay là tạo hóa cũng ghen ghét sự mỹ mãn?
Năm Canh Tý phát ra cái án của thế tử là do Ngô Thời Nhiệm.
Ông Thời Nhiệm do công ấy được thăng làm Công bộ Thị lang. Người thời ấy có câu rằng: “Giết bốn cha mà được thị lang, trung cần chí hiếu”, cái lỗi của Thời Nhiệm dư luận không dung thứ. Khi em là ông Thời Chí vào làm Thiêm tri hình phiên, có soạn bộ sách Nhất Thống Chí; khi chép về cái mật án ấy ông cũng che đậy đi nhiều, nhưng về những việc trong cung phủ thì chép được tường lắm, không nên nhất nhất đều chê cả.”
Hoàng Yên Lưu