Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngụcNhà thơ Nguyễn Chí Thiện và trang bìa tập thơ Hoa Địa NgụcHoa địa ngục là một hành trình thơ, là một hành trình sống. Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả
đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960,
ở miền Bắc. Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền
Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc
Tấn.
Năm 1979, một tập thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được in ra. Những ấn bản đầu tiên
không đề tên tác giả, chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã đem tác phẩm của mình "ném
vào" toà đại sứ Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Hoa địa ngục, khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy vực[1], Quê hương tù ngục[2], v.v...
Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa địa ngục do tác giả chọn.
Hoa địa ngục hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác
hoa), những đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con
người dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các cơ quan tranh đấu cho nhân
quyền, song thơ ông có lẽ chưa bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông còn sống.
Bởi nhiều lý do, nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng người Việt hải ngoại chia nhiều phe
phái: Phái tả thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến "bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Phái hữu, phần đông không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ cực hữu, sử dụng ông như một vũ
khí, một viên đạn trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật".
Cuối cùng chỉ còn lại một số ít người trung thành với thi ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt hành trình
lâm nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ ông trong im lặng.
Những thành kiến cả yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch kiệt chửi cộng sản làm nền.
Chính những câu thơ này đã tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực đoan, quá khích, đi ra
ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí Thiện.
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn
đạt, là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây
thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong
lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người
nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đã thở thành sự
thật.
Năm 1960, ở tuổi 21, vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một đoạn lịch sử thế chiến thứ hai,
Nguyễn Chí Thiện phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án hai năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến
1964.
Năm 1966, bị tình nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11 năm, 1977 được thả.
Năm 1979 đến toà đại sứ Anh gửi hay "ném" tập thơ Hoa địa ngục, bị bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến
1991.
Trước sau tổng cộng 27 năm.
Ngày 28/10/1991, Nguyễn Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự thành thật đã qua đời dưới một thế
quyền mà sự giả trá đã trở thành quốc sách.
Sự thành thật nguyên thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho người nghe, người đọc trong
các xã hội "tân tiến" phải ngạc nhiên vì chất men "quê mùa" còn sót lại trong con "người rừng" đã trải
gần ba mươi năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới "văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền
sử.
Làm thơ khi bắt gặp một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh lòng,... Ông là nhà thơ trần
thuật, một người kể chuyện bằng thơ. Thơ ông gần với lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ
thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục.
Hoa địa ngục là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc
đời trong xã hội cộng sản.
Người ta trách thơ ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ
thuật làm thơ? Còn kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ? Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp
nhoáng, ghi lại những đớn đau gào thét trong thịt da tâm não.
Bản thảo Hoa địa ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề năm, chắc là những trang giấy rời, cho
nên khi in ra, mỗi người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự, không theo thời gian, mà cũng không
theo chủ đề, các bản in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém
nhau một vài bài.
Lối in vội này, in tất cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả:
những bài thơ dở làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người đọc. Bởi thơ cần hay không cần
nhiều. Biết bao nhà thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ dở hoặc những lời thơ lập đi
lập lại nhiều lần. Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ.
Vậy điểm đầu tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài
dở hoặc lập lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí
Thiện: Thân phận con người trong xã hội toàn trị.
Nguyễn Chí Thiện là nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm soát con người từ trí óc
đến hành động, từ tay chân đến tư tưởng. Hoa địa ngục vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình
sống.Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con
người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc.
Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng là sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra
đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 củaBùi Ngọc Tấn.
Hoa địa ngục là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu
cuộc sống hoà bình, độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng sáng tác bài Mắt em,
thơ tình, có lẽ là bài thơ đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái "thủa ban đầu lưu luyến ấy",
lần đầu rung động trước đôi mắt thuyền[3]. Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca dao, Lưu Trọng Lư
và TTKH trong tình yêu thứ nhất:
Mắt em mềm mại con đò
Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu
Mắt em trong mát giòng sâu
Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một vườn hoa
Vắng anh, thắm nở chói loà sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957)
Người thanh niên 18 tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được ba năm, nhưng chưa "lột xác":
vẫn còn mộng đôi mắt thuyền của Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài các "đóng nghiêm" trong
khung cửa của Thâm Tâm TTKH.
Một năm sau, 1958, thơ đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm "giải phóng". Thơ
luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn:
Quanh hồ liễu rủ
Giữa hồ tháp đứng âm u
Đền Ngọc Sơn không hương khói lạnh lùng
Cầu Thê Húc nằm nghe lá rụng...
Đâu những bác thầy tầu, thầy cúng
Những bà già đi lễ năm xưa?
Cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùa
Lẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958)
Lại một năm nữa trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái sợ của người dân thấm dần
vào không gian, cỏ lá. Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài, lan tới núi rừng, tới thượng du,
tới những bản xa nơi địa đầu hoang dã:
Vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếu
Rừng ngả dần mầu hiểm bí, âm u
Gió đìu hiu thoang thoảng lạnh hơi chiều
Sương ẩm ướt bắt đầu rơi phủ
Trong lặng vắng vút ngân dài tiếng hú
Vài cánh chim lạc lõng vội bay về
Lời tối tăm vang dậy bốn bề
Tiếng ếch nhái côn trùng trong cỏ nước
Người lữ khách giật mình chân rảo bước
Bàn mường xa có kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959)
Nhưng 1959 cũng là năm người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn xã hội, nhìn con người và
cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được thực dân Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ búa liềm, liệm
dần cuộc đời thực tại trong bốn bức tường độc tài của một người, một đảng.
Nguyễn Chí Thiện bắt đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người mù, một xẩm tân thời sống
trong chế độ mới; đồng thời cũng là ý thức của chính mình, lần đầu tiên tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm
sau những bức bình phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo:
Tôi thường đi qua phố
Có anh chàng mù, mắt như hai cái lỗ
Kính chẳng đeo, mồm thời xệch méo
Ngậm vào tiêu, cổ nổi gân lên
Dốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rên
Mấy bài hát lăng nhăng ca ngợi Đảng
Đã mang lại ấm no và ánh sáng!
Một buổi sớm anh như choáng váng
Gục xuống đường, tiêu rớt sang bên
Tôi vội vàng chạy lại đỡ anh lên
Anh chỉ khẽ rên: Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959)
Năm 1959 đối với Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức. Ngày Thiện đỡ người mù dậy,
cũng là ngày anh đỡ chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng. Nhưng đó cũng là ngày đại
hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến hết tuổi trẻ.
Năm 1960, lại một bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện nhận dạy thay một người bạn
ốm vài giờ lịch sử cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về đại chiến thứ hai, thấy sách
giáo khoa viết Nhật đầu hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn Châu, Thiện bèn đính
chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì đến chính trị
Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà, lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền". Người con trai 20 tuổi, bị
giam vì trót dậy học trò sự thực, chưa tiên đoán được những gì sẽ đến trong tương lai:
Nửa đời thân thế long đong
Nhà thương tù ngục xoay vòng tuổi xuân
Một năm thổ huyết hai lần
Mười năm cấm cố tiêu dần thịt da
Rừng hoang biên giới mưa sa
Hoẵng kêu nấc gịong xa xa trên ngàn
Chăn đơn khôn ấm nỗi hàn
Co lên đất tấm thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974)
1961, nẩy sinh một Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã thôi lãng mạn, đã từ yêu đương,
miễn tiếc nhớ, để bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh:
Có những chiều mưa buồn lạnh cóng
Giữa bùn trơn tê tím xương da
Chống cuốc nhìn rừng núi bao la
Trong bụi nước mờ mờ lẩn bóng...
Có những chiều mặt trời như lửa bỏng
Giọt mồ hôi mờ xót con ngươi
Đặt gánh phân nhìn bốn phía đất trời
Rừng núi đứng im lìm trong nắng loá
Có những chiều thịt gân rời rã
... (Có những chiều, 1961)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ nhân chứng
Từ đây, Nguyễn Chí Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ của địa ngục trần gian, của
thiên đường cộng sản. Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đã quắc lên.
Ở tuổi 23, ông viết bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền
lành mấy năm về trước, nay đã có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc
liệt, vung lên:
Chúng tôi sống giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong mấy dẫy nhà tranh
Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp sống của con người
Của trâu, chó? So làm sao, quá khó!
Làm kiệt lực, nếu không giây trói đó
Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy cứ coi chừng
Xà lim tối, chân cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền miên đói khát
Đánh liều xơi tất cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng
Chưa có một thứ gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang
Đảng cất giấu dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn vừa khốn nạn, gian ngoa
Biết bao người chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả những loài bọ rết
Vì thuốc men, trò bịp khôi hài
Chế độ tù bóc lột một không hai
Biết bao cảnh, bao tình quằn quại
Có những kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y tế dữ hơn phòng mật thám!
Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma
...
Có những buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công an lục soát toàn thân
Thu đốt cả vật tối cần- miếng dẻ!
Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên đường cụ hứa như thế kia a?
... (Chúng tôi sống, 1962)
Chúng tôi sống, 1962, là một bản cáo trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và chi tiết về
cuộc sống hàng ngày của những tù nhân chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết, chưa bao giờ
được công bố.
Chúng tôi sống làbức tranh hiện thực rỏ máu. Sự thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người
còn chưa hết say chiến thắng Điện Biên, còn đang hướng về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp
xong bọn "phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải 40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này thành tiểu thuyết.
Nguyễn Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì vậy mà ông đã không được đánh giá đúng
mức, bởi trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí
Thiện.
Chúng tôi sống nói lên sức sống mãnh liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao có sự trở
mình của một ngòi bút bẩm sinh vốn nhu mì, nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao một
thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại sau 27 năm tù.
Trong số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện rõ nét, bởi anh là một nhà thơ, dám nghĩ,
dám ghi lại ngoại cảnh và tâm cảnh của mình. Anh bắt đầu đầu đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về
thân phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung:
Trời u ám, cây hay là xương xám?
Mây đục mờ, hay vải liệm mầu tang?
Gió đìu hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?
Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ ngước trông non nước mịt mù
Và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (Trời u ám, 1962)
Kể từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai trò nhân chứng của mình. Kể từ nay, anh quyết
tâm ghi lại trong đầu từng cảnh sắc, từng hình ảnh, từng chi tiết nhỏ nhoi:
Đêm rừng, rả rích mưa, phòng dột
Ôm gối ngồi run lạnh nhìn nhau
Chấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu
Thùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt
Đêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm rừng rả rích, 1962)
Mỗi trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào
mà kiếp người kinh hoàng đến thế:
Trời mưa tầm tã đêm qua
Sáng nay lạc rỡ còn pha trộn bùn
Sá gì bệnh sán, bệnh giun!
Dịp may hiếm có, tùn tùn nuốt nhai
Tôi nghe rào rạo bên tai
Một nhân lạc phải trộn hai nhân bùn (Trời mưa tầm tã, 1962)
Cái đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa, không còn trọn khối nữa, mà nó đã hoá thân,
hóa chất, nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn nuốt nhai, rào rạo bên tai, một nhân lạc trộn hai nhân bùn. Nó
đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ chậm mà chắc.
Vẫn chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để
cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả:
Toán tôi rỡ lạc ngoài đồng
Có ông quản giáo ngồi trông đàng hoàng
Thừa cơ quản giáo trông ngang
Một anh tranh thủ vội vàng nuốt nhai
Vài nhân lạc cả vỏ ngoài
Quả tang! Báng súng nện hoài không thôi!
Mồm anh toé máu, vều môi. (Toán tôi rỡ lạc, 1963)
Chưa có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói vừa bị đánh.
Nhưng sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một chuyện
vui hàng ngày. Những chữ thừa cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài, càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn,
làm tê liệt hệ thần kinh người đọc.
Thơ Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời, cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những
lời lẽ bình thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn
trong những con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất ngờ.
(Còn tiếp)