Thành phố Houston, Texas
Chuyên đề Ký ức 40 năm trân trọng giới thiệu bài viết của TS Vũ Cao Phan viết về chuyến thăm nước Mỹ mới đây của
ông. TS Phan nguyên là chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Trung, Viện trưởng viện Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Bình
Dương. Như tiêu chí mà RFA đưa chuyên đề Ký Ức 40 năm mở ra cho tất cả mọi công dân Việt Nam nhằm chia sẻ nhận
xét và suy tư của mình. Bài viết “Gặp gỡ nước Mỹ” đã được đăng trên báo Văn Nghệ xuất bản tại Hà Nội số 1 năm 2915
và được phép tác giả cho đăng lại trọn bài viết của ông như một góc nhìn khác cho chuyên đề này.
Tôi thích thời tiết Houston mùa này, ít nhất là trong những ngày ở lại. Có gì giông giống Hà Nội thu. Mưa rải chỗ này, nắng
trám chỗ kia, thoắt đi thoắt đến. Dìu dịu khí trời buổi sớm để găn gắt nắng rám quả bóng xế chiều.
Vậy nên bách bộ khi mặt trời còn náu đâu đó không chỉ giúp khỏe chân khỏe cẳng mà còn là cái thú khó diễn đạt thành lời.
Người Mỹ không dùng hè đường để thể dục thể thao như ta dù nó rộng thênh thang (với họ việc này đã có các công viên),
buổi sớm ở đây vắng ngắt, tha hồ vừa đi vừa ngắm chim, ngắm sóc dạn dĩ trên đường hoặc tư lự về đủ thứ trên đời. Dẫu
vậy, ngay buổi đầu tiên tôi chạm một người Việt. Gặp nơi xứ người, lại cùng trạc tuổi, chúng tôi liền trở thành đồng hành
mỗi sớm. Kể, mới điều trị ở bệnh viện về, đang giai đoạn hồi phục. Mấy bữa đầu chỉ đi được mươi phút, nay sau mươi
lăm ngày đã bách bộ được ba, bốn chục phút, khỏe ra, đang lên cân, Kể hồi ở “bển’’đã một đôi lần bị đau, đi khám được
cho toa dạ dày, nghĩ cũng chắc vậy vì rồi thấy đỡ.
Đến lần vừa rồi đau dữ, vô bệnh viện ở đây họ phán ngay bệnh tim. Bác sĩ trợn mắt nhìn tôi rồi cho chuyển lập tức đến
một bệnh viện khác để mổ, bệnh viện này lại chuyển đến một bệnh viện chuyên ngành và nơi đây, sau một hội chẩn người
ta bảo các mạch máu của tôi bị nghẽn cả rồi nhưng can thiệp bằng phẫu thuật chưa chắc đã cho kết quả tốt, Bác sĩ, cẩn
trọng và quyết đoán, đặt ba cái sten nong mạch cho hiệu quả tức thì. Thật may mắn. Nằm bệnh viện một tuần rồi về nhà,
điều trị tiếp theo chỉ dẫn của họ. Mới đi kiểm tra lại, các chỉ số xấu đều giảm rõ rệt. Hỏi tốn bộn tiền lắm hả? Anh bảo mới
qua đây với con gái, chưa có thẻ bảo hiểm chi cả, ngoài một cái thẻ vàng cho người nghèo. Mà thẻ này không được chấp
nhận ở nơi anh điều trị, kết toán lên đến 32.000 Mỹ kim. Bệnh viện biết tình cảnh, tìm các cơ sở pháp lý để giúp anh trang
trải cũng chỉ giảm được 40% số tiền trên. Lại thêm một lần may nữa: kết cục trường hợp của anh được một phái đoàn
kiểm tra của nhà nước biết đến và họ cho miễn phí hoàn toàn. Họ chu đáo thế thì mình phải “ cám ơn” thế nào, tôi hỏi.
Không, tuyệt đối cấm. Đã có quy định, quà tối đa là hai mươi đô, chủ yếu là hoa. Anh kể, rời bệnh viện về nhà chừng hai
mươi hôm thì nhận được một văn bản từ bệnh viện, đề nghị cho ý kiến nhận xét cụ thể và thẳng thắn về quá trình điều trị.
Tôi được biết, anh bảo, đã có bệnh nhân được bệnh viện cử người đến tận nhà tặng quà vì lời nhận xét họ cho là xác
đáng và hữu ích.
Ở tây nam Houston có một cộng đồng đông đúc người Việt và bệnh viện ở đấy đã dành hẳn một tầng lầu rộng rãi riêng
cho các bệnh nhân cộng đồng này, luôn cả ê kíp bác sĩ và nhân viên người Việt hoặc biết nói tiếng Việt, luôn cả đầu bếp
nấu món ăn Việt. Không, đừng quen miệng đánh giá đấy là sự quan tâm của “chính quyền” kẻo chính quyền cười cho.
Kinh tế thị trường quyết định cả đấy, có cầu có cung. Cái đáng khen là sự nhanh nhạy, tạo ngay sản phẩm tối ưu lợi cả đôi
bên, một kiểu business rất Mỹ!
Bang Texas có một Trung tâm y tế (Texas Medical Center), đặt ngay ở thành phố Houston, Trung tâm này lớn nhất nước
Mỹ và lớn nhất thế giới luôn. Để hình dung, hãy nhìn vào sự đông đặc các cơ sở liên quan đến y khoa: 21 bệnh viện, 16
viện nghiên cứu, hàng chục trường đại học và cao đẳng đào tạo chuyên ngành – tất cả đều phi lợi nhuận - tọa lạc trên
ngàn rưởi dặm vuông với hơn một trăm ngàn bác sỹ và nhân viên y tế, hàng năm tiếp đón bảy triệu bệnh nhân đến từ khắp
nước Mỹ và thế giới. Riêng các ca mổ và điều trị bệnh tim ở Trung tâm này đã nhiều hơn bất cứ nơi nào trên địa cầu.
Không hiểu anh bạn mới quen của tôi có đã điều trị ở đây không nhưng tổng thống Nga Enxin từng được mổ tim qua
mạng từ Trung tâm này hồi những năm 90.
Tôi có lần ghé một bệnh viện ở San Francisco, bất ngờ đọc thấy dòng chữ trên tấm bảng ngay lối cửa chính: “Mọi bệnh
nhân đều được điều trị hoàn toàn bình đẳng, bất kể tuổi tác, chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch , quyền công dân hay
thân phận pháp lý. Bệnh viện không được trì hoãn việc điều trị cho dù bệnh nhân có hay không có khả năng chi trả hoặc
bảo hiểm” ( All patients have medical treatment rights equally regardless of age, race, religion, nationality, ethnicity,
residence, citizenshif, or legal status. A hospital cannot delay treatment while determining whether someone can pay or is
insured ). Vậy đấy. Đây là điều được quy định trong luật. Tuy nhiên việc điều trị y tế ở Mỹ không rẻ, không ít người phải
tìm đến các bệnh viện của nước láng giềng Canada có giá cả dễ chịu hơn. Cách nay không lâu một cuộc điều tra tỷ mỉ do
Micheal Moore tiến hành tại Cuba, Mỹ và Canada đã đưa ra kết luận, hệ thống y tế của Cuba là tốt và dân chủ hơn cả,
Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Obama ít nhất đã ghi được dấu ấn trong vấn đề bảo hiểm y tế gây nhiều tranh cãi.
Vượt lên sự phản đối gay gắt của giới khá giả do lo ngại sẽ phải đóng thuế nhiều hơn, ông đã giành được sự ủng hộ của
quốc hội về Chương trình bảo hiểm y tế mang tên Obamacare, được lòng người nghèo.
Hệ thống giao thông công cộng đường dài phục vụ dân sinh – không kể hàng không - ở đất nước rộng mênh mông và
phát triển bậc nhất thế giới này dường như không phổ biến lắm. Hơi lạ, hỏa xa và xe bus đường dài thiếu vắng hẳn so với
châu Âu, đặc biệt là Đức và Pháp. Khi cuối cùng đã đi qua năm bang và chừng hai mươi thành phố xứ Cờ Hoa, cảm nhận
này được củng cố, và tôi hiểu ra. Thay vì phương tiện công cộng, nước Mỹ có một hệ thống đường giao thông bộ không
đâu sánh bằng. Hệ thống này bắt đầu được thiết lập một cách chỉn chu ngay từ thập kỷ 30 của thế kỉ trước và ngày càng
hoàn thiện. Đường đô thị đã đành, đường cao tốc xuyên bang, đường cao tốc quốc gia mười, hai mươi làn xe chằng chịt
khắp nơi khiến ngay người bản địa trong khi di chuyển cũng luôn phải check net để đảm bảo có được cung đường “vận
trù” nhất, Đường xá đã như vậy, người người đều có xe cá nhân - mà phương tiện cá nhân lại luôn luôn đắc dụng ở sự
chủ động, linh hoạt – thì phương tiện công cộng hỏi có … Nhiều chuyến xe khách đường dài chỉ thấy ngồi trên đó một vài
người.
Tôi mất một ngày từ Los Angeles đến nhà người thân ở Fresno rồi lại trọn một ngày nữa từ thành phố nhỏ nhắn xinh đẹp
này đến Cầu Vàng ở San Francisco. Sẽ chẳng tốn thời gian đến thế nếu không vì ham cảnh ham chơi lại giống thân phận
một kẻ quê ra tỉnh, qua chỗ nào lạ lạ cũng muốn dừng. Trên cả hai cung đường ấy, trời đã lạ mà đất càng lạ, Ở đường
cao tốc quốc gia số 5 tôi phải “ tốp’’ không biết bao nhiêu lần vì sự huy hoàng hoang dã của cảnh sắc hai bên đường,
Thung lũng núi non tròn trịa trọc lốc không một ngọn cỏ, chỉ cần đặt vào đấy mô hình một con tầu không gian rồi chụp lấy
pô ảnh, tuyên bố vừa hạ cánh xuốngsao hỏa cũng chẳng ai bác – tôi nghĩ vậy (Nói thêm một chút, ở Bellingham thuộc
bang miền bắc Washington nhìn thấy những thân cây to lớn, dài ngoẵng hun hút như từ đỉnh trời lao xuống thung lũng, tôi
nhất quyết “cãi” với mình cái ông đạo diễn Cameron chắc chắn đã chọn nơi này làm khung cảnh cho phim Avatar).
Không một ngọn cỏ, nhưng kỳ thực cỏ đã ngả hết qua màu sa mạc vì suốt hai năm nay “không một giọt mưa’’. Nói cho
đúng thì California vốn cũng là xứ bán sa mạc. Điều lạ lùng, đây lại là nơi nông nghiệp trù phú, cung cấp thực phẩm cho
cả nước. Đã cuối mùa thu hoạch mà nhiều nơi vẫn ngăn ngắt bạt ngàn rau trái, mặc kệ xung quanh trắng mốc hoang mạc
khô úa. Sao kì vậy?
Câu chuyện được bắt đầu từ giữa thế kỷ trước. Trong khi 70% nguồn nước ngọt của tiểu bang tập trung ở miền bắc, nơi
mưa nhiều khiến nước tràn trề ngập lụt vùng châu thổ sông Sacramento – San Joaquin thì 80% nhu cầu về nước lại tập
trung ở khu đô thị trung tâm và vùng đất thuận tiện cho trồng trọt phía nam. Cali do đó thiếu nước, phải mua nước từ các
tiểu bang bên cạnh. Một công trình đa mục tiêu, một Dự án Nước lớn nhất quốc gia, trước hết là dẫn thủy nhập điền, đã
được người Mỹ quyết tâm thực hiện tại đây. Gọi là công trình thế kỷ hay xuyên thế kỷ (trên thực tế nó vẫn đang được tiếp
tục hoàn thiện) có lẽ cũng chưa xứng đáng vì chắc chắn công trình này còn sừng sững số một cho nhiều đời sau. Gần ba
chục hồ chứa nước ( lớn nhất là Quail Lake), 600 dặm kênh dẫn, năm nhà máy thủy điện và bốn nhà máy phát điện, điều
tiết ngập lụt cho cả một vùng rộng lớn cũng như việc khiến khu vực này trở thành nơi du lịch giải trí hoang dã rất được yêu
thích thì cũng chưa là gì so với lợi ích biến hàng vạn dặm vuông hoang mạc của California thành vùng nông nghiệp trù
phú bậc nhất nước Mỹ. Cả một hệ thống mương máng nổi, ống dẫn chìm như những mao mạch chi chít dẫn nước đến
từng luống đất, mà đất thì tốt, như là một sự hợp tác tuyệt vời giữa con người và tạo hóa. Câu chuyện này rồi trở thành cổ
tích khi sẽ có một ngày người hát rong vừa gảy Tây ban cầm vừa kể về người khổng lồ khát nước Cali, đến lượt mình, đã
trang trải hào phóng nguồn nước cho những chàng khổng lồ láng giềng như thế nào.
Nghề nông được quan tâm hỗ trợ với nhiều chính sách ưu tiên. Giống, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu được cung ứng
giá rẻ. Xuất hiện loại sâu hại mới là lập tức có ngay lực lượng thú y đến tìm hiểu, khoanh vùng rồi tiêu trừ, hoàn toàn miễn
phí không để nhà nông phải loay hoay. Không ít người Việt đã thành công vang dội với nghề nông. Kể ra hai trường hợp.
Anh Đoàn, sang Texas thập kỷ 80, phụ với một người bạn trồng cây kiểng. Bạn già yếu, nhượng lại anh phần vốn liếng
của mình, Đoàn bắt tay mở rộng trang trại; làm ăn được, anh mua đất mở rộng thêm nữa, Rồi cây kiểng chỉ là phụ, rau trái
mới là chính. Thoạt đầu cung cấp cho nhà hàng, rồi ký hợp đồng với các siêu thị. Rồi xuất qua cả Nevada và Florida.
Trang trại của Đoàn phát triển nhanh, năng động và rất được tiếng về kỹ thuật thu hái đảm bảo rau trái tươi ngon. Tiếng
thơm lan truyền cả nước và Đoàn được đích thân người đồng hương Texas số 1, G. Bush, gửi thư khen khi ông đang ở
cương vị Tổng thống. Đoàn farm hiện nay vẫn đang giữ vững vị trí của mình, khi mỗi ngày nườm nượp xe chuyên dụng
đến đây ăn hàng. Còn Nguyễn Ba, anh từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Mỹ khi cũng không còn trẻ. Vùng phụ cận
Seattle bang Washington vốn nổi tiếng với những vườn dâu bạt ngàn, anh theo mọi người đến đây làm nghề hái dâu thuê
cho một ông chủ Do Thái. Công việc đơn giản, hái được bao nhiêu tính tiền bấy nhiêu. Chịu khó cũng hái được tiền. Một
bữa ông chủ phát hiện trong nhóm của anh có kẻ bỏ đất vào thùng dâu hòng kiếm thêm trọng lượng, hái thêm tiền. Không
chỉ một thùng và chắc cũng không chỉ một lần. Nổi đóa, chủ đuổi sạch đám làm công gian dối. Anh cũng nổi đóa, không
đu với cách làm ăn kiểu này, kiếm chỗ khác chơi. Bỏ hết vốn liếng, vay thêm bà con, bạn bè, anh mua đất lập riêng một
trang trại nhỏ.
Chẳng ngờ nó lớn vùn vụt. Chẳng ngờ là cách nói cho nói mà thôi. Ba mở rộng trang trại lần lần, đến một ngày nó trở nên
tít tắp. Anh đã bỏ vào đấy biết bao công sức và sự cần cù, cùng cách làm việc không giống ai, có thể viết thành sách
dùng cho những người muốn tham khảo. Thoắt ba mươi năm, trại dâu của Ba trở thành một trong ba thế lực nông nghiệp
của vùng. Cùng với hai thế lực kia – một Nga, một Do Thái, chính cái ông Do Thái đã từng đuổi anh – họ quyết định giá cả
xuất khẩu mặt hàng dâu Mỹ sang thị trường châu Âu, bạn hàng không bao giờ nản của họ vì chất lượng cực tốt của thứ
dâu không chỉ làm thực phẩm mà còn được dùng trong mỹ phẩm. Được biết Ba vừa thành công trong việc thử nghiệm
trồng lứa sâm Mỹ nổi tiếng đầu tiên, mở ra nhiều triển vọng kinh doanh. Tôi rất muốn được “ thực mục sở thị”, tiếc rằng khi
cất công đến đây thì vụ thu hoạch cũng vừa xong, Ba đã trở về quê nhà nghỉ ngơi trước khi quay lại cho mùa làm ăn mới.
Xin kể chuyện này: Một công ty Mỹ quyết định mua lại một công ty Pháp ở Paris, trong kế hoạch phát triển thương hiệu
của mình. Thương thảo mọi điều khoản xong, họ đồng ý ký tắt trong working lunch (bữa ăn trưa làm việc) ngay tại căng tin.
Vào bàn, người Mỹ chợt thấy phía trước ba nhân viên Pháp đang vui vẻ với cá hồi và rượu vang. Bữa ăn vẫn diễn ra
nhưng việc ký tá được hoãn lại. Hoãn lại có nghĩa không bao giờ nữa. Việc dùng chất cồn trong công, tư sở ở Mỹ bị cấm
hoàn toàn, cấm nghiêm ngặt, dù là trong bữa ăn nối buổi. Đơn giản là: Buổi trưa chỉ có nửa tiếng nghỉ cho việc ẩm thực
thì rượu vào nếu không xâm lấn giờ làm việc thì cũng ảnh hưởng đến năng suất lao động. Một ngày 8 tiếng làm việc là 8
tiếng làm việc (với 15 phút thư giãn giữa mỗi hai tiếng), còn nửa tiếng nghỉ ăn trưa là tùy theo quy định của từng văn
phòng: hoặc khấu trừ lương, hoặc kéo dài thêm giờ làm. Đây là một trong các lý do để giải thích tại sao năng suất lao
động và tiền lương ở đất nước này lại cao.
Ngay từ thuở còn trên ghế nhà trường, tôi đã đọc thấy, nghe thấy không biết bao lần câu “Lao động là vinh quang’’ nhưng
thực chất cũng không hiểu lắm. Chỉ biết rằng nó rất “tư tưởng’’, rất “quan điểm giai cấp’’ vì sự tôn vinh lao động. Qua bên
này mới hay cái slogan ấy, “work is glory’’ không phải là của riêng ta (Cũng như câu: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho
bạn, hãy hỏi bạn đã làm gì cho Tổ quốc” là lời củacố Tổng thống Kennedy, vân vân và vân vân). Vậy ở đây người ta quan
niệm thế nào là vinh quang? Ở Bellingham, mua mấy thùng táo trong một khu vườn nổi tiếng rộng hàng chục hecta, tôi thật
ngạc nhiên khi biết được người đeo tạp dề cùng chúng tôi bưng bê đến tận bãi xe là bà chủ, trong khi đâu có thiếu kẻ ăn
người làm.