Văn, thơ, và nhạc có một quan hệ mật thiết. Dễ thấy nhất là chúng đều phải cần đến chữ. Cũng rất thường, ta nghe, rằng văn của người này có thơ, hoặc bài nhạc nọ có lời như thơ. Như vậy, thơ dường như bổ sung cho văn và nhạc để làm nên nghệ thuật. Nhưng những câu thơ nếu đọc như văn nó sẽ là những câu văn hoặc cụt ngủn hoặc dài vô nghĩa, và một bài thơ khi được phổ thành một bài nhạc hay thì nó chẳng còn được nhắc đến trong tự dạng ban đầu – nhạc có thể nâng một bài thơ dở và xóa một bài thơ hay. Xem ra, thơ thiệt thòi nhiều bề: có khi, vừa nên hình dạng đã bị bỏ quên, bị nhạc phanh thây (!), có khi, xuất hiện rồi không tìm được tri âm. Tệ nhất, là khi thơ bị chính thi sĩ phụ phàng.
Khi bước vào thế giới chữ nghĩa, có lẽ Nguyễn Đình Toàn chưa dứt khoát một con đường. Truyện Chị Em Hải ra đời 1961 thì tập thơ Mật Đắng được xuất bản năm 1962. Nhưng rồi NĐT đã quay mặt với thơ mà lao vào văn chương cho đến khi không còn được viết. Những năm tháng sống thầm sau một chín bảy lăm đưa đến những bài thơ cô lẻ thì một lần nữa, nhà thơ lồng âm thanh vào để bức tử chúng. Hơn trăm bài nhạc, nếu Võ Phiến gọi truyện của Hoàng Ngọc Tuấn Thư Về Đường Sơn Cúc là thơ, thì những ai hát nhạc NĐT đều nói ca từ ấy chính là thơ. Có nên không, một lần đọc lại những lời thơ ấy trước khi chúng được tung ra dưới dạng các ca khúc, chỉ được xem như ca từ - các con chữ được chọn lựa để vừa với một âm thanh một khi đã nghe rồi khó gột đi, để thơ được vang lên âm thanh của riêng nó khi đứng trong một bài thơ, là thơ, với nguyên vẹn hình hài.
***
Đi tìm lại những vần thơ, có lẽ ta sẽ hỏi lời thơ của NĐT mang chứa những gì để được gọi là thơ. Những nhà nghiên cứu phê bình văn học có hàng tá tiêu chuẩn để xác định, và người đọc thơ có thể chả cần tiêu chuẩn gì ngoại trừ hai chữ “tôi ưa!” Nhưng ở giữa hai thái cực, người ta có thể đồng ý với nhau ở một số điểm để nhớ đến một bài thơ, để hiểu và cảm thơ của một người. Thơ trao cho ta cái đẹp, cái mỏng manh, cái sâu sắc, cái lãng đãng dật dờ, cái kiêu hùng, cái lãng mạn… Thơ mang cho ta cảm xúc, gợi suy tư, dạy cho ta một điều gì đó, soi rọi/gõ vào hồn ta một nỗi niềm, đưa ta vào một chân trời khác, nhắc cho ta sống… Chỉ cần một trong những gì đã nêu, một câu nói thông thường đã có thể được coi như một câu thơ. Nhưng để là một bài thơ đòi hỏi nhiều hơn – một hình thức tối thiểu, một nội dung trọn vẹn dẫu đơn sơ.
MỘT TIẾNG NÓI TỰ DO
Về hình thức, chúng ta dễ nhớ thơ có vần có nhịp, dễ cảm thơ có nhạc điệu. Hãy đọc Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Vũ Hoàng Chương. Hãy đọc Hoàng Cầm, Đinh Hùng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính. Hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên, Bùi Giáng…
Ở thuở vào đời, thơ NĐT trong Mật Đắng kết hợp lẫn lộn giữa thơ có vần và thơ xuôi theo một mức độ tương xứng. Nhưng đến sau một chín bảy lăm thì thơ ấy đã nghiêng hẳn sang thơ tự do, đa phần không vần, không nại đến hơi thơ Đường không vịn lục bát, ít sắp xếp bằng trắc, ít lặp âm _ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái lướt song song, hay _ Nắng xuống trời lên sâu chót vót. (Huy Cận, Tràng giang).
Ta gọi “thơ tự do” bởi thơ không theo một khuôn khổ nhất định về nhịp vận. Nhưng không có nghĩa là thơ ấy không âm điệu, chỉ là âm điệu tự do mỗi người có thể tìm ra cho riêng mình khi đọc lên, và cái âm điệu trong thơ tự do của NĐT cũng rất nhỏ nhẹ chứ không kêu ơi ới như Vũ Hoàng Chương:
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu không sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ em ơi,
hay hách như Mai Thảo:
Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta sử chép cả nghìn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương,
hoặc hào hùng như Tô Thùy Yên:
Ta hỏi han hề hiu quạnh lớn
Mà hiu quạnh lớn vẫn làm thinh
cũng chẳng ngông như Nguyễn Tất Nhiên:
Chim lớn thôi đành cam rớt lệ
Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh
Thơ NĐT không có giọng kêu réo kể lể hay chia sẻ với ai cả, chỉ là những lời thở than thì thầm với chính mình, những tiếng nói không mạch lạc, những mảng âm thanh rời rạc chán chường thờ ơ: Thịt da hay là đá, Ta hỏi rồi ta nghe... Nguyễn Đình Toàn điềm đạm hết biết:
Ta có râu mày giống cỏ
Mọc lên bên sườn đá
Cũng có khi lòng ta ngất ngư
Như chẳng còn nhớ ra trời đất chi (Ta Có Những Ngày, chưa xuất bản*)
...
Đọc thơ NĐT có lúc cảm như tác giả đã dùng một thứ âm thanh trắng (white noise) để xóa mọi âm thanh chung quanh và buộc ta nghe tiếng hư không, nghe lại chính mình.
Tôi ngồi một mình trên đồi thông vắng
lưng tựa vào gốc một cây già
dưới chân đồi
con suối cát trắng chảy
vào cánh đồng xanh
không gian vàng giấy bóng kính… (Không Dưng, tập Mật Đắng, 1962).
Không gian không chỉ tĩnh mịch mà còn ngột ngạt thê lương:
Có khi đời bỗng như
Chẳng còn hứa chi cho ta
Tháng năm rời rã đi
Bằng từng bước chân u mê
Môi non dường đã khô
Mi xanh chừng cũng nghe
Phôi pha theo những mùa lá
Rơi rớt trong hư vô
Tình chết trên tay tưởng nhớ nhau đây
Đêm đưa thây
Sao vẫn nghe tình thở hơi gọi ai
Ôi tiếng muôn trùng thở quanh mây khói
Hay tiếng phai tàn gõ nhịp lòng tôi … (Có Khi Đời Bỗng Như)
Hoặc tác giã vẽ ra một khúc phim câm:
Khi em trở về
Trời mùa Đông đen
Căn nhà không người
Và mùi ẩm mốc
Khi em trở về
Tay đầy nước mắt
Trên thành cửa bụi
Tuổi thơ đi qua
Khi em trở về
Mộ người yêu đó
Hoa trên phiến đá
Cỏ buồn ngón chân
Và cơn gió rét
Que diêm bật lên
Que diêm bật lên
Nỗi buồn thắp lên
Những mơ ước cũ
Sáng lên một lần
Những hình ảnh cũ
Tắt đi một lần
Khi em trở về
Bàn tay khói hương
Buồn xưa sắp hết
Nói gì đi em… (Nỗi buồn và bàn tay, Mật Đắng)
Không vần nhịp không so chữ đối câu mà để cho nó tự tuôn tràn, thơ NĐT nếu đã thiếu bổng trầm thì có còn gợi cảm? Có lẽ thơ NĐT là thơ chỉ để đọc bằng mắt, đọc một mình, và cũng có lẽ vì thế mà tác giả đã mang nó ngay vào nhạc, vào một âm thanh khác. Nhưng yếu tố thiếu nhạc điệu không làm giảm thi vị mà lại có tác dụng buộc người đọc phải chú ý đến những con chữ với đủ chiều sâu của nó để nhận được cái gì nó (con chữ) gợi nên.
Ta thử đọc Chênh Vênh Hình Bóng:
Ngày như nỗi chết giăng ngang giữa hồn lạ kiếp
Thiên thu trong một hồi chuông lắng ngân
Sương âm u xóa mờ cảnh biếc
Dấu chim bay nào ai biết
Chỉ thấy hồn mỏng thêm
theo vết đen mờ cuối mây
Ôi mây như xác tình trôi
Người xa chưa chắc đã vui
Có phải mưa chỉ là nướcmắt
Cái sầu nhẹ nhất của nhân gian
Con sâu kèn điên trong vòm âm thanh
Bưng tai còn nghe dội vang lời kêu van
Mênh mông mênh mông đêm buồn
Chênh vênh chênh vênh hình bóng
Gió lạnh réo ngoài phên cài
Giật ta trên vách, trên vách lay
Trăng mùa xuân biển sóng dài
Dường như ta nhớ rồi nhớ sai
Xin mời nhau một chén này
Dù chẳng vui uống chia đắng cay
Bao giờ xa thật xa rồi
Mình ta sẽ tính mà đứng ngồi
Bên cạnh cái rầu rầu đơn điệu, cấu trúc của câu thơ cũng thẳng tuột xuôi chiều không quanh co khúc mắc, không cần phải đọc lại mới hiểu ý. Nhưng có thật dễ hiểu không? Đằng sau cái trầm trầm bình thản, lời thơ của NĐT thật không dễ bỏ qua dù thích hay không bởi ý nghĩa sâu xa của những điều ông muốn nói.
MỘT TIẾNG LÒNG AI OÁN
Không còn nhiều thơ nhịp vận với những tình tự trăn trở của riêng mình như xưa, thơ tự do những ngày tháng về sau của NĐT mới trông thì giống thơ tự do của những người trẻ với những cảm nghĩ nhất thời, tại chỗ, những ý niệm vu vơ vụt qua được níu lại; nhưng thực sự, thơ NĐT có nội dung phong phú vì chứa đầy những hình ảnh, những cảm suy về quê hương, thân phận, chữ tình, và bởi ý tưởng và ngôn ngữ mang cả một chiều dài văn hóa (nếu có thể gọi là văn hóa) với nhân sinh quan và dấu vết xã hội mà ông đã trải qua.
Cũng như những người đồng thế hệ, NĐT sống trong lục bát, trong thơ Đường, trong ca dao, trong hiện sinh và chiến tranh. Dù muốn hay không, những gì đã vây quanh và tạo nên một thế hệ đều xuất hiện trên con chữ. Thế hệ của họ là những con tằm ăn lá dâu tẩm mực Tàu, mực Tây, hít thở Kiều, Chinh Phụ Ngâm, ca dao, rồi nhả ra những sợi tơ vàng óng chuốt đầy chất Việt.
Sartre nói “Hell is other people,” Mai Thảo đưa vào thơ ông:
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là kẻ khác ơi. (Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền)
Lưu Vũ Tích (thời trung Đường) than:
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai
(Chỉ e hoa biết nói cười,
Nở ra đâu có vì người già nua. Trần Trọng Kim dịch)
Tô Thùy Yên rằng Cảm ơn hoa đã vì ta nở, thế giới vui từ mỗi lẻ loi (Ta Về)
Nguyễn Đình Toàn ư? Ông nói,
Một cánh hoa bay thôi đủ làm phai
Nhạt bớt sắc xuân trong vườn sớm nay (Một Cánh Hoa Rơi)
(Nhất phiến hoa phi giảm khước Xuân_Đỗ Phủ, Khúc Giang Kỳ)
Tuổi xanh đã qua thì như lá thu vừa chớm vàng
Ngày nào đó sẽ tàn rơi xuống không một tiếng vang (Sương Mai)
(Lạc hoa tương dữ hận
Đáo địa nhất vô thanh _Vi Thừa Khánh, Nam Hành Biệt Đệ)
Chiều đứng trên đồi cao
Ta thở dốc
Ta trông mây đục
Trông người người đen
Cây nôn ra rừng gió độc
Bùn lầy dốc mưa trơn (Mưa Long Giao)
(Sông Thao nước đục người đen, ca dao)
Từ một câu thơ của Bàng Bá Lân được sử dụng nhiều đến nỗi tưởng ca dao
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Nguyễn Đình Toàn nối tiếp:
Giếng khơi nước ngọt cần đưa
Những gầu rách nát múc vừa hồn không (Trưa, Mật Đắng)
Rằng hay thì thật là hay, nhưng nói hay viết đẹp biết nhiều, mọi thứ chỉ là mua vui một phút nếu tác giả không có gì để nói với ta ngoài cái chuyện lập lại người khác. Nếu Tô Thùy Yên không có 10 năm tù bạc tóc suýt mất mạng thì cảm ơn hoa đã vì ta nở chỉ là chuyện lãng xẹt, phải vậy không:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi...
Vậy Nguyễn Đình Toàn nói gì với chúng ta qua thơ của ông? Quê hương, thân phận, chữ tình, cảm suy- chỉ là cái nền đã cũ, đành chịu, bởi chúng ta chả biết gì hơn ngoài trái đất này, và cũng chưa chắc chúng ta đã biết hết, biết sâu sa cái phận của chính mình.
QUÊ HƯƠNG
Quê hương ư _ quê hương của NĐT là đắng cay là nước mắt, NĐT ghi lại một quê hương hết mức khổ đau, một quê hương đầy những tai ương. Phải nói đến quê hương, bởi với NĐT, quê hương là nơi mọi tình cảm nảy sinh, mọi cuộc sống có một ý nghĩa. Mất một quê hương người ta không còn biết mình là ai, không còn biết phải sống làm sao cho dù đời chưa tận, mạng chưa tuyệt. Có một ngày bỗng dưng không ai còn có thể là mình, mọi quan hệ bị phá tan đảo lộn, từng viên gạch sân nhà bị bóc lên, từng hơi thở bị trói chặt, người ta phải sống thế nào? Quê hương trong thơ NĐT trở nên một lời trăn trối.
Tôi muốn nói với em
Về những tháng năm
Tổ Quốc ta nhục nhằn
Người phơi người trên đau thương
Dạy trẻ thơ thù oán
Sợ nhau hơn bão trời cướp biển
Em có biết sao không
Người mong ước ly tan (Tôi Muốn Nói Với Em)
…
Rừng người cây xanh tươi
Biển người như tay nôi
Ru người sống trong tình yêu người
Xin hãy nhớ quê hương tả tơi đắng cay
Nơi máu đã xây thành đắp núi
Nơi có gươm trong từng tiếng nói
Và lưới đời giăng khắp nơi (Nhìn Lại Em Đi Anh)
…
Có chăng một ngày
Quê hương ta không còn
Hận ngăn ghét trói
Đớn đau sẽ nguôi
Đói no cũng vui
Biết buông sầu oán vơi
Thương đầy
Nhìn nhau ra người
Cũng một đời thôi
Mà máu xương buồn vấy
Chân em thơ dại
Và trên đường nơi em qua lại
Sao lòng chắc không ai
Đã nằm chết nơi đây
Dưới mặt đất này
Để đừng đạp trên
Mặt người ngủ yên (Nụ Vàng)
Sẽ có người hỏi – có cần thiết không để khơi lại buồn thương, ghi lại điều khổ hận; hãy để lịch sử phán xét. Nhưng cho dẫu phán xét là công việc của lịch sử thì lịch sử mong gì làm được bổn phận của nó nếu đã có vài trang sử bị xé bỏ, bị bôi xóa, bị bóp méo, và chúng ta mong gì tái tạo lại quê hương nếu không nhận với nhau rằng chúng ta đã có một thời oan khiên với mọi rường mối bị chà đạp: phá nghĩa trang cày mộ địa- lũ trẻ, tương lai của dân tộc, qua lại trên đường không hề biết mình đạp lên mặt người đã qua đời, có thể là ông bà tổ tiên, có thể là anh linh của những người đã bỏ mình cho quê hương. Không phải Nguyễn Đình Toàn đắng cay mà là số phận quê hương mình dân tộc mình đắng cay, ai có quyền bảo ai thôi đừng nói.
THÂN PHẬN
Thân phận con người trên quê hương ấy ra sao?
Thuở đoạ đầy
Người chẳng ra người
Ma chẳng ra ma
Vợ con như từng chiếc
Răng rụng rồi quên ta (Mưa Long Giao)
Người ta phải chôn nhau, nếu không chôn thân xác cũng chôn hồn của mình đi để đừng đau đừng buồn đừng khóc hận,
Thôi đất đã chua cành đã chết
Xin lấy dao chia lòng luyến tiếc
Mong chốn xa kia tình sẽ còn (Nhìn Lại Em Đi Anh)
như người vợ khấn chồng tù đã bỏ mình nơi chốn nước độc rừng thiêng:
Thôi Ở Lại Nghe Anh
Thôi ở lại nghe anh
Ở lại nghe anh
Đất sẽ ôm anh
Rừng sẽ ru anh
Từng đêm lạnh
Cuộc hấp hối mười năm
Giờ cũng xong đây nhỉ
Trăm năm đành xa nhé
Có phải hồn anh trong gió kia
Cơn mưa nào giữa chiều
Để hồn em tối tăm mù theo
Khi đi anh là người
Bây giờ anh là đất
Làm sao em tin được
Ôi cát dưới chân em từ nay
Trở thành thịt xương
Mỗi bước đi
Chia đôi lòng nhớ quên
Thôi ở lại nghe anh
Ở lại nghe anh
Có khóc nhau chăng
Còn tiếc thương không
Thì cũng đành
Cỏ có biết gì đâu
Mà nhắn nhau đây nhỉ
Cơn mưa chiều dương thế
Có dột hồn ai dưới đất nghe
Đời sống, mỗi người mỗi phận, nhưng cái cộng nghiệp biến mọi điều riêng thành lẽ chung, khiến nhìn đâu cũng ra phận của mình, khiến nỗi buồn nhân thế thành biển sầu. Số Phận có lẽ đã phải nhỏ lệ tự hỏi mình đâu rồi quyền năng vạn thuở. Nguyễn Đình Toàn đứng giữa cõi người ta ấy sao tránh khỏi điều ai oán:
Ta có những ngày quá buồn
Ngồi nghe quanh trời gió
Ôi tiếng chim nào cũng oán thương
Tiếng động nào
Cũng nghe ra nhịp đưa quan
Hồn ta đinh nào đóng
Trời đất mênh mông
Ta không còn chỗ về
Bóng ta bù rối
Lòng lạnh môi tê
Xương trơ hồn cổ mộ
Thịt da hay là đá
Ta hỏi rồi ta nghe (Ta Có Những Ngày)
...
Trăm năm sau
Trong mưa ngâu
Mong gì chim bắc cầu
Cho duyên đau chia lại gối nghèo
Nhìn xuống quê hương trong vực sâu
Tưởng nghĩa trang xanh ai gửi theo
Thành phố khuyên ta mù bấy lâu
Đêm sân nhà buồn len kẽ rêu
Ta đã bao phen chặt cây khô héo
Trong đáy tim này còn vọng tiếng dao (Dù Có Như)
Nhưng cũng như Tô Thùy Yên, như những người sống sót qua cuộc bể dâu, kẻ hiện sinh chỉ cần biết rằng mình sống là đủ cảm tạ đất trời
Cũng có lúc ta nghe đời đẹp như
Là giấc mơ hoa
Hạnh phúc vô bờ
Một ngày còn
Như ơn riêng ta mang trong trời đất
Dẫu cho lòng nhỏ lệ một đôi khi (Cái Phai Tàn Cái Xa)
TÌNH VÀ CẢM SUY
Gói tất cả quê hương, văn hóa, và thân phận riêng chung vào với nhân sinh quan của riêng mình, NĐT đúc kết nên một chữ TÌNH. Tình là chi, mà nhiều khi chôn được ở lòng ta. Tình là chi, mà nhiều khi chôn lại nở thành hoa (Có Bao Giờ).
Nguyễn Đình Toàn vừa bi quan vừa tha thiết, biết đời mình ngắn ngủi nên yêu từng hạt bụi, yêu cả nỗi buồn yêu cả đau thương, thấy đất trời trong từng hơi gió. Nhưng như thấm ý hiện sinh, Nguyễn Đình Toàn đẩy cái không đến tận cùng không để trở về cái có ngay hiện tại, trong từng phút giây.
Khi em trở về
Mộ người yêu đó
Hoa trên phiến đá
Cỏ buồn ngón chân
…
Khi em trở về
Bàn tay khói hương
Buồn xưa sắp hết
Nói gì đi em… (Nỗi buồn và bàn tay)
Người đã chết, là hết, hết hồn hết xác, chỉ còn ngọn cỏ sầu ngọ ngoạy ngón chân, chỉ còn quãng không với lặng im vời vợi. Nói gì đi em, bởi tiếng nói của em sẽ làm đầy không gian, sẽ làm chúng ta hiện hữu, dẫu anh và em ta đã xa nhau như trời xa đất… (Em Còn Yêu Anh). Với Nguyễn Đình Toàn, đời sống không gì thực hơn môi hôn, hơn tiếng nói, ngay lúc này, bây giờ, bởi
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
Và dấu giày mai sẽ lá sương che. (Khi Em Về)
Những cảm suy từ thuở vào đời trong Mật Đắng với đời sống luôn cận kề cái chết theo mãi với NĐT, khiến chữ Tình không bao giờ trọn vẹn, Khi mới yêu thôi lòng đã biết, Như đóa hoa sai mùa héo non. Tình chỉ là cái cớ để lòng dậy lên chìm xuống, Tình chỉ là phương tiện để người ta biết mình sống_ Yêu cho có vết thương làm nỗi vui. Thật khó biết nếu NĐT có thật yêu ai, nhưng thật dễ biết là NĐT thích yêu, và thích yêu cụ thể (!!!). Nói đến tình, NĐT không ngần ngại nói đến xác thịt, đến cái dịu đọng của dòng tình sau phút bên nhau:
Góp đôi đời gian nan
Chắp môi làm yêu thương
Từng đêm trăng rằm trăng sáng sương nguồn êm lắng (Đêm Trên Sông Trăng)
…
Đêm như làn da ướt
Ôm ta giữa lòng thơm
Đêm sữa mật ngây ngất
Tuôn trên những cành non
Đêm nồng (Đêm Nồng)
Trịnh Công Sơn còn chờ Về Thu Xếp Lại, còn hẹn kiếp sau
Nằm im giữa trời
Ròn vang tiếng cười
Điệu kèn ai buốt trong tôi
Mùi hương phấn người
Một hôm nhớ lại
Hẹn ngày sau sẽ mua vui
Riêng NĐT dù tình đã không mà lòng vẫn thiết tha
Nhưng mà
Sao lòng ta
Vẫn nhớ không nguôi tới ai
Dù tình như bóng mây tan rồi
Bên thềm
Bao lần
Ngồi chờ nghe tiếng chân êm đềm
Dù tim ta biết không bao giờ
còn đến
…
Gương hồ
Mơ hồ
Như giấu bóng ai xưa đã soi
Hồn ta như đáy sâu bồi hồi (Hoàng Oanh)
vẫn thèm yêu cả khi đã hết xí quách:
Người chẳng còn mong
Nhiều khi bỗng nghe
Như tình bỗng dưng trở về
Thở một mình hơi tàn phai
Thấy hương phấn người
Lắm khi còn bay (Hoa Trên Muôn Cây)
và vẫn nghe được tiếng gọi của tình trước phút tàn hơi:
Đêm đưa thây
Sao vẫn nghe tình thở hơi gọi ai (Có Khi Đời Bỗng Như)
Yêu kịch liệt như vậy mà hỏi rằng NĐT có thật yêu ai dường như mâu thuẫn, nhưng trên cõi đời này có ai dám nói mình hiểu hết chữ Tình. Và nếu có người nói hiểu, ta có nên tin? Bởi chính NĐT dẫu yêu hết tim óc, yêu dai dẳng một mối tình thơ
Nhưng riêng trong ta nhiều đêm vẫn nghe
Ngân nga dư âm một bài thơ bé
Của thuở nào đó
Yêu ai
Tim ta thành bia (Đêm Trên Sông Trăng)
cũng có phút hỏi lòng Ta yêu người hay tiếc thương riêng những ngày xanh (Đêm Nồng). Hãy chỉ thấy Nguyễn Đình Toàn vẽ cho ta hình ảnh của chính NĐT và của mọi người biết yêu trong cõi tình để có thể mơ hồ cảm nhận cái biến ảo của chữ Tình,
Như con bướm xanh đen
Mang đầy ước mơ
Trong đôi cánh mềm
Bay đi kiếm tơ duyên
Say nắng tơ êm
Trên rừng lá xanh
Rồi lạc vào trong cơn điên
Ngã trên cuộc tình bóng mình
Oán trách thiên đường
Cánh rũ cánh buồn
Giập môi đau thương (Bướm Xanh)
Và có lẽ ta chỉ nên tin rằng NĐT là một người biết quí lòng mình quí tình của mình nên quí chữ Tình, cũng như đi hết một đời người cái nhân sinh quan tồn tại nơi NĐT chỉ còn là một chữ Tình:
Đi qua rồi mới thấy
Tới cuối cuộc vần xoay
Nghe ra
Chỉ ngày tình đáng vui (Hoa Trên Muôn Cây)
Như tất cả mọi người thơ, Nguyễn Đình Toàn gom hết lòng mình để nói, nhưng dẫu người thơ nói bao nhiêu chăng nữa, chúng ta cũng chỉ nghe được nếu người ta biết nói (và chúng ta biết cách để nghe!). Sao để gọi là biết nói. Trên cái nền tảng 300 năm chữ Việt, trên cái kho văn hóa chung vài ngàn năm của nhân loại, ngôn ngữ của chúng ta dường đã cạn. Xã hội biến đổi đưa đến những ngôn từ mới dùng trong xã hội, nhưng trong văn học, ý niệm và chữ dùng dường đã hóa đá. Chúng ta phần nhiều lập lại suy tưởng của nhau, những câu nói cách nào đó đã được sử dụng. Ở Nguyễn Đình Toàn, điều đến được và ở lại được trong lòng chúng ta đứng trên những gì đã nói có lẽ chính là cách NĐT nói.
ĐÂU CHỈ KHÓC CƯỜI
Để có một cách nói, phải biết chính xác mình muốn nói gì, và cũng phải biết chọn lọc lời sao cho vừa ý. Nguyễn Đình Toàn không dễ dãi với chính mình, bắt đầu từ trong suy nghĩ. Ở Nguyễn Đình Toàn, cái chuyện đơn giản nhất cũng được ngó cách khác.
Yêu, nếu trọn vẹn yêu là phải có hai người, cớ sao chỉ một người lưu dấu? Ôi son trên môi còn in dấu người, bởi không chỉ son em in trên áo anh như dấu vết tình ta mà mọi người quen nói, mà chính dấu vết hơi hướm của anh cũng in hằn trên thể xác em – bây giờ, lúc này, không phải trên bộ tàn y.
Duyên tình, phải đành là số phận, nhưng người ta tránh né tình duyên thì NĐT tuyên bố đã trốn thoát qua nhiều phen!! (Dạ Khúc). Nghe ra tình nguy hiểm, nghe ra chuyện đánh ghen, nghe ra cái hóm hỉnh của một con bướm đa tình, nhưng trên hết, nghe ra cái ngán ngẩm của kiếp nhân sinh – chán sợ đến đâu rồi cũng phải vướng vào.
Rồi những điều xảy ra trong cuộc sống, có những điều ta biết mà chẳng gọi được tên chẳng nói được gọn lời. Với NĐT chỉ cần đôi con chữ: Ngày như nỗi chết giăng ngang giữa hồn lạ kiếp. Không phải lộn kiếp, không phải kiếp khác kiếp sau; nó chính là cái kiếp này đây mà trong phút giây chúng ta không chết đã thấy mình xa lạ với kiếp của mình, cuộc đời hôm qua mới vừa qua, còn rất gần mà đã thành quá khứ mịt mờ, đến nỗi xác thân còn lại thấy hồn mỏng đi một ít
Dấu chim bay nào ai biết
Chỉ thấy hồn mỏng thêm
theo vết đen mờ cuối mây (Chênh Vênh Hình Bóng)
Mỏng - không hư hao, không vàng võ, không tả tơi, không vẹo. Thêm, bởi đã từng!!! Từ cái nghĩ khác nhìn khác mới có thể dẫn đến một cách nói khác, hồn mỏng thêm là một cách nói mới cho cụm chữ “lòng đã hao gầy” quen dùng gần thành sáo ngữ. Hồn mỏng thêm đưa mình tới gần hơn cái mình không bao giờ nắm được, cầm được trên tay.
Tỉ mỉ và rạch ròi để đừng giống ai như vậy dễ khiến người ta nói NĐT làm dáng. Nhưng hãy công tâm mà nhìn lại, có ai cầm viết mà không làm dáng, không muốn cái dáng của mình khác người? Nếu chỉ muốn như mọi người thì nói làm gì, người khác nói đã đủ!!! Mà cũng không dễ để làm dáng chữ nghĩa với cái vốn ngôn từ Việt đã hao mòn. Ta hãy nhìn cách dùng chữ của Nguyễn Đình Toàn.
Hình ảnh, màu sắc, âm thanh, và cử chỉ chiếm khá nhiều trong thơ, được phối hợp để vẽ ra những khung cảnh sắc nét và sinh động. Thử đọc:
Trên những lá cây xanh
Sớm mai nắng vàng lên
Bên những luống rau thơm
Xôn xao bầy sẻ non
Bay quanh áo em phơi
Xui lòng ta nhớ
Có nước mắt quê hương
thiết tha trong từng cơn
Có gió mát bay quanh
nón treo trên mộ son
Bên cây súng cô đơn
máu người đã biến ra
rêu xanh buồn
Trên dòng sông khói sương
Giữa đồng khô nước lên
Áo em bay
Áo em bay (Bài Thơ Trên Tay Áo)
…
Chàng ngồi bên sông xưa lắng nghe
Âm thầm trong nước cuốn
Mặt trời che khăn đưa
Máu ai sáng ngời cuối trời buồn
Tháo đôi giầy
Gỡ khuy cài
Nghe tóc bay
Máu trong người bỗng như ngừng
trong phút giây (Một Ngày Sau Chiến Tranh)
Chỉ một đoạn thơ tưởng nghe được tiếng nước tiếng gió tiếng chim, thấy được cảnh, sắc, và hành động, như đã được xem một một khúc phim. Và cũng chỉ trong vài câu mình cảm được ngay lòng của nhà thơ bởi tác giả đã nối kết những gai góc sắc cạnh bằng những tiếng mềm mỏng gợi cảm: Bay quanh áo em phơi xui lòng ta nhớ, nghe tóc bay; gợi sầu: Bên cây súng cô đơn máu người đã biến ra rêu xanh buồn, Máu trong người bỗng như ngừng trong phút giây…
Bên cạnh cái cách “dựng cảnh” thơ, Nguyễn Đình Toàn còn có những ví von so sánh liên tưởng rất đắt giá, rất mới:
Ôi ta đi qua tuổi xuân đã lâu
Nhưng đôi khi quay nhìn quanh hố sâu
Bông hoa thơm tho cũng đầy sắc máu
Có đêm hồn gióng chuông sầu
Đất đen dường đã
len vào hồn ta
tìm nơi ẩn náu (Đêm Trên Sông Trăng)
Muốn hiểu “Em đẹp em xinh em ngoan hiền rồi em rất ‘máu,’ anh khù khờ anh thật thà anh trung hậu rồi anh cũng ma bùn(!!!)” thì cũng được, mà muốn hiểu “Em ngây thơ thánh thiện giờ lắm đau thương, anh trong sáng đôn hậu rồi cũng thảm sầu” cũng vẫn được. Hoặc cứ hiểu như đã từng hiểu/nói: hồng có gai, lòng tăm tối, thì thơ NĐT vẫn làm những điều cũ kỹ “thơ” hơn, mới hơn.
Điều thú vị là ở cái giọng buồn buồn rầu rĩ chán chường, NĐT thường dùng chữ động:
Nhưng vẫn muốn sáng lên
Như tiếng nói đã quên
Tiếng mẹ tiếng Việt Nam
Rơi xuống mãi đáy tim
Trong những lúc vắng im
Trước một giấc ngủ ngon
Len giữa đám khói hương
Hay lúc nắng mới lên
Soi vàng trên lưng thềm
Chợt reo lên tiếng ngân êm đềm
Giọt nước cũng nhớ nguồn
Lá không quên rừng
Chắc em sẽ còn
Nhớ lại Việt Nam (Tôi Muốn Nói Với Em)
…
Gió giật ta trên vách, trên vách lay (Chênh Vênh Hình Bóng)
Ở câu thơ vừa trích còn là chuyển động chồng lên nhau tạo hình ảnh ba chiều đưa tới cảnh một người cô đơn đối bóng trong căn nhà nhỏ giữa đêm sâu gió lộng. Còn có thể động hơn không?
“Động” cũng chưa đủ, NĐT còn đẩy việc nhân cách hóa và cụ thể hóa mà các nhà thơ thường làm tới một bước xa hơn:
Cơn mưa chiều dương thế
Có dột hồn ai dưới đất nghe (Thôi Ở Lại Nghe Anh)
…
Đêm qua mưa bỗng về nửa khuya
Đêm bao la đêm trở mình nghe
…
Ôi bao nhiêu những lời anh nói
Như kim khâu kín hồn lẻ loi (Mưa Khuya)
…
Tiếng chim véo von
Tiếng chim héo hon
Đã khâu liền vết thương
Của người vừa qua giấc ngủ
Giấc ngủ mười năm (Nụ Vàng)
Đêm là khoảng không không ánh sáng, chỉ là một ý niệm đối chiếu với ngày; hồn chỉ là niềm tin, là ý niệm về người đã chết. Người ta cho đêm những yếu tính buồn, tai họa, đe dọa, v.v…, cho hồn một hình ảnh tượng trưng, nhưng NĐT cho đêm cho hồn một cơ thể, một chức năng. Âm thanh có tác dụng xoa dịu, nhưng NĐT cho âm thanh chữa lành vết thương lòng.
Nghĩ khác, nhìn khác, nói khác, lãng mạn Nguyễn Đình Toàn cũng khác. Những tình cảm mong manh, những ước muốn mơ hồ, những đau buồn không tên tuổi, đều hiện ra trong dạng đơn sơ cá biệt, bằng những lời chuốt lọc cũng rất lạ lùng
Giếng khơi nước ngọt cần đưa
Những gầu rách nát múc vừa hồn không (Trưa, Mật Đắng)
…
Đã tắt hết chưa em
nến thiêng trong hồn mơ
Ta muốn viết lên tay áo em
một bài thơ
Cho gối ấm đêm nay
sẽ đầy chim hót
báo tin xuân về (Bài Thơ Trên Tay Áo)
…
Ô hay đất đá nào rơi lở
Hay tự lòng ta lấp lối về (Dù Có Như)
…
Ôi em là giọt sương
Long lanh đầu cành mai
Cho tim ta phút vui
ở ngoài cuộc vui (Sương Mai)
…
Thư em nói với anh
Cây xanh nói với anh
Bằng những lời tha thiết
Muà hè nói với anh
Phượng đỏ nói với anh
Bằng những vết thương (Em Còn Yêu Anh)
…
Áo em mỏng hơn trăng
Tóc em dài như đêm
Lòng ta khoang thuyền bỏ không
Phai mòn gỗ quí (Đêm Trên Sông Trăng)
Có thể thấy cái tài sử dụng chữ của Nguyễn Đình Toàn chỉ trong một đoạn thơ ngắn:
Gương hồ
Mơ hồ
Như giấu bóng ai xưa đã soi
Hồn ta như đáy sâu bồi hồi (Hoàng Oanh)
“Gương hồ” biến hồ thành diễm ảo, và “mơ hồ” thì mơ hồ! Hai chữ hồ không thực thể nối tiếp nhau tạo cái lung linh của mặt nước, dẫn tới cái ảo ảnh của nhớ thương, rồi cả cái hồ nhớ thương ấy chiếm trọn hồn ta. Mười tám chữ. Bốn câu ngắn. Đáy sâu bồi hồi. Cái lãng mạn không còn mong manh mơ hồ mà mang sức nặng của cả một hồ nước, cái bồi hồi cũng mênh mang rộng ngát như hồ. Nếu có ai nhớ thương mình như vậy thì có xứng không những khổ đau đã qua, sẽ đến của kiếp người?
***
Ai đắp đập, ai phá núi
Cho hồ nước đầy
Là mặt gương soi. **
Với Nguyễn Đình Toàn, một chữ dễ nghe thuận tai không thể thay cho một chữ chính xác:
Buồn xưa sắp hết
Nói gì đi em (Nỗi Buồn và Bàn Tay)
“Sắp” chứ không “sẽ”, bởi sẽ thì không biết đến bao giờ và cũng không chắc xảy ra, nhưng sắp khẳng định cái hiện tại đang có đang phai tàn, và khẳng định kết quả “hết.”
Thơ hay hay dở đẹp hay xấu tùy ở người thưởng thức, nhưng đằng sau giá trị nghệ thuật, chữ của NĐT là một đóng góp cho ngôn từ văn chương Việt. Nguyễn Đình Toàn đã nói với ta một điều khả thể: cho dẫu kho chữ của chúng ta đã cũ, vẫn có thể viết mới, vẫn có thể đi tới. Hơn trăm bài thơ/ca từ, những chữ Nguyễn Đình Toàn đã dùng đều không phải là chữ mới, và cách kết lời cũng rất giản đơn, nhưng NĐT đã buộc ta phải nhìn phải hiểu phải đọc theo một cách khác, trao cho ta một cách viết khác. Tựa như những người xây hồ trên núi đá, Nguyễn Đình Toàn đã phá núi chữ đắp đập cho lời mà tạo nên hồ thơ trong cho người soi bóng.
Hãy soi.
Lưu Na
04232019
* Những bài thơ đã dẫn được trích từ tập Thơ và Ca từ, chưa xuất bản, nhưng có một số bài hát đã được trình bày và thu âm.
** Lời bài hát Hồ Trên Núi