Phải công nhận với phương tiện internet quá ư tiến bộ, tin tức ngày nay được loan truyền vô cùng
mau chóng và rộng rãi. Cũng nhờ thế tôi biết được một cựu giáo viên của ngôi trường nơi tôi từng
theo học vừa mới từ trần qua thư thông báo của hội đồng hương tỉnh nhà. Thành thật mà nói, khi đọc
thấy tên cô trên trang cáo phó, tôi không nhớ ra cô tuy trong lòng dấy lên một nỗi xao xuyến mơ hồ:
hình như tôi từng biết cô hay từng có chút liên hệ xa gần nào đó với cô. Ít ngày sau đó, cũng qua
trang mạng, mọi việc bỗng trở nên sáng tỏ hơn nhờ một bài viết được post lên nhằm tưởng niệm cô
và cũng từ bài đó, cả một ký ức xa xưa chợt sống lại trong tôi.
Vì tác giả bài ấy cũng thuộc thế hệ của tôi nên những chi tiết mà chị kể lại thật gần gũi đối với tôi.
Theo lời chị, năm cuối cấp tiểu học, chị và một người chị họ được học chung lớp Nhứt của cô L.H.
(tên cô giáo ấy). Học được chừng hai tuần lễ thì mẹ chị sinh em bé và vì vậy một trong hai chị em
phải xin chuyển lớp, đứa học sáng đứa học chiều để đỡ đần việc nhà và phụ chăm em bé với mẹ. Bởi
thế chị rời lớp của cô L.H. để chuyển sang học một lớp Nhứt khác (buổi chiều).
Học được chừng hai tuần lễ thì chị lại nằng nặc đòi chuyển về học lớp Nhứt cũ của cô L.H. mà lý do
được chị phân tích như sau, “Có thể lúc đó do tôi chưa thích nghi với lớp học mới, nhưng lý do quan
trọng nhất mà tôi muốn trở lại học lớp Nhứt B là do… tin đồn: “Chỉ học lớp Nhứt B của cô L.H. mới
chắc chắn thi đậu vào trường N.Q.” Và vì thế, mặc dù gia đình rất khó khăn, trước sự nài nỉ khóc lóc
dữ dội của chị, “ba má tôi đành… muối mặt dẫn tôi tới trường, xin cô L.H. và cô hiệu trưởng cho con
chuyển lớp trở lại.”
Đọc tới đây, thì, như một căn phòng tối om vừa được ai đó bật đèn lên, tôi bỗng nhớ ra tất cả. À, thì
ra cô L.H. là một cô giáo dạy lớp Nhứt rất kỳ cựu, rất nổi tiếng “dạy đâu đậu đó” của trường tôi dạo ấy.
Chính bản thân tôi, khi mới lên lớp Nhứt, ba má tôi cũng định xin chuyển cho tôi qua học lớp cô giáo
ấy nhưng không được vì sĩ số ở lớp cô đã quá cao.
Có lẽ cũng cần nói sơ qua lý do của những sự chuyển lớp này cho các bạn thuộc thế hệ sau hay ở
những nơi khác được rõ. Không biết ở những tỉnh khác thì sao chứ vào thời chúng tôi còn nhỏ, tỉnh
nhà chỉ có một ngôi trường trung học công lập duy nhất và mỗi năm trường chỉ nhận khoảng 300 học
sinh vào lớp Đệ Thất (tức lớp Sáu) mà thôi. Học trò nếu thi rớt sẽ phải học trường tư. Vô hình trung,
năm cuối của bậc tiểu học là năm mà cả cô giáo lẫn học trò đều phải mang nặng trọng trách lên vai
với sự theo dõi đôn đốc tận tình của các bậc phụ huynh.
Năm đó, từ lớp Nhì lên, tôi học nhằm một lớp mà chưa chi cô giáo đã vắng mặt nhiều buổi vì bận việc
hay đau bệnh gì đó. Bởi vậy ba má tôi đâm lo, bèn nhờ người chuyển tôi qua lớp cô L.H., và như tôi
đã kể, “đại sự bất thành,” ba má tôi bèn gửi tôi đến một cô giáo khác nữa. Đó là cô K.S., con gái của
một người bạn của ba tôi và, theo ba tôi nói, cô có tinh thần trách nhiệm rất cao.
Thế là tôi “đầu quân” sang lớp mới, với cõi lòng… tan nát vì chung quanh chẳng có lấy một đứa bạn
cũ nào; đã vậy, cô giáo mới của tôi không nổi tiếng như cồn, không thiệt… chắc ăn như cô L.H. Thế
nhưng sau một năm học với cô, tôi thấy quả đúng như lời ba tôi đã nói, cô giáo lớp Nhứt của tôi thật
tận tụy với học trò. (Và sau nhiều năm nữa, tôi nghiệm thấy người đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu
đậm nhất, người khai mở trí óc non nớt của tôi nhiều nhất chính là cô giáo ấy.)
Kết quả là cuối năm ấy tôi đậu được vào lớp Đệ Thất trường công lập N.Q. Cất khỏi đôi vai nhỏ bé
gánh nặng ngàn cân, chỉ lúc đó tôi mới an tâm mà mơ tưởng tới cái áo dài đầu tiên trong đời. Bây giờ
nghĩ lại mới thấy lúc ấy sao mình dại thế! Cứ mong mau trở thành người lớn và cứ tưởng mình mặc
vào người chiếc áo dài là sắp sửa được thành người lớn tới nơi rồi.
Ấy là mới 11 tuổi đấy. Nói chi tới năm lên mười sáu, mười bảy, tránh sao khỏi ý nghĩ rằng mình đã
trưởng thành rồi trong khi thực ra, đó chỉ là tuổi của vui buồn bất chợt, của chán nản bâng quơ, của bất
mãn không duyên cớ. (Có lẽ lúc ấy tâm hồn tôi “nổi loạn” không khác chi đám nhóc teenager hay
chống đối bây giờ). Trong những phút “khủng hoảng” đó, tôi nhìn đời bằng cặp mắt kiếng đen thui,
thấy tất cả mọi chuyện chung quanh đều phi lý. Phi lý nhất là cuộc chiến huynh đệ tương tàn càng
ngày càng đẫm máu. Máu đồng bào, máu người thân, máu bạn bè. Chiến cuộc càng leo thang, áp lực
về học hành thi cử càng đè nặng trên đôi vai những người trẻ tuổi trong đó có đám con trai cùng
trường cùng lớp với tôi.
Đi xa hơn, tôi đâm giận cả chuyện thi cử hồi bé của mình. Tôi nhớ lại những ngày lớp Nhứt; học ngày,
học đêm, rồi “học thêm” nữa. Trong cơn chống đối của tuổi nổi loạn trong tâm hồn ấy, tôi bất mãn
chuyện ba má tôi và cả “xã hội chung quanh” nữa, bắt tôi phải “hy sinh” tuổi thơ để dồn tất cả cho
chuyện học hành thi cử hồi còn bé, cũng như “xã hội chung quanh” hiện tại đang bắt mọi người phải
hy sinh tuổi xuân, hy sinh xương máu, hy sinh sinh mạng cho những chính kiến bất đồng.
Có lẽ cũng vì thế mà có một thời tôi muốn quên đi những ngày học lớp Nhứt cùng những buổi học
luyện thi với các đề luận văn khô khan già cỗi, các bài toán đố hóc búa kiểu: động tử cùng chiều cùng
lúc xe nào tới trước, động tử ngược chiều gặp nhau ở đâu, vận tốc thế nào; vòi nước mở bao lâu thì
tràn hồ, bao lâu thì đầy hồ nếu hồ có lỗ rỉ, vân vân. Có một thời tôi cũng không muốn nhớ những thứ
mà tôi cho là nightmare, là ác mộng, là áp lực của gia đình và trường lớp từng đè nặng lên tôi ở lứa
tuổi măng tơ. Và kết quả là ngày nay, tôi không còn nhớ nổi tên một cô giáo từng là thần tượng của
mình.
Trải qua hơn nửa đời người, tin một cô giáo cũ qua đời đã giúp tôi có một cái nhìn mới, đúng đắn hơn
về một thời quá khứ. Cơn “nổi loạn” teenager đã qua, qua lâu lắm rồi. Bây giờ tôi thấy gì? Thấy
thương quý lòng lo lắng của ba má dành cho tương lai của con cái mà có con rồi, có làm cha mẹ rồi
tôi mới hiểu. Thấy thương quý sự tận tâm dạy dỗ, đôn đốc học hành, chu toàn trách nhiệm của các
bậc mô phạm như cô L.H., cô K.S. của tôi. Thấy thương xót thân phận học sinh nhược tiểu, trường ít
trò đông đến nỗi phải lao đao vì thi cử như chúng tôi thuở ấy. Và, sau hết, tôi bùi ngùi thương quá là
thương sự “dại dột” của tôi lúc bé, cứ tưởng được làm người lớn là thần tiên sung sướng lắm!
Hạnh Viên