Diễn đàn xã hội dân sự lớn nhất của ASEAN trao bản tuyên bố chính thức cho các chính phủ ASEAN
Thông cáo báo chí, ngày 24 tháng 1 năm 2015
Để biết thêm thông tin: Yu Ren Chung,
renchung.wao@gmail.comPetaling Jaya. Diễn đàn xã hội dân sự lớn nhất của ASEAN vừa đưa ra một tuyên bố chung ngày hôm nay. Bản tuyên bố nhấn mạnh những vấn đề “ưu tiên trong khu vực và các mối quan tâm bao quát xuyên suốt”, và cũng đưa ra các khuyến nghị để giải quyết những vấn đề này.
Bản tuyên bố, được soạn thảo bởi Diễn đàn Công dân ASEAN (APF) năm 2015, đã được đưa ra ngay trước Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN, diễn ra vào ngày 26 và 27 tháng 1.
“Chúng tôi hy vọng rằng thông qua tuyên bố này, tiếng nói của tất cả mọi người dân sẽ được các nhà lãnh đạo ASEAN lắng nghe. Các chính sách của ASEAN phải có lợi cho những cộng đồng bị thiệt thòi nhất, chứ không phải là chống lại họ, “Wathshlah Naidu của Tổ chức Yểm trợ phụ nữ (Women’s Aid Organisation) ở Malaysia, người đã lãnh đạo việc soạn thảo Bản Tuyên bố chung, cho biết.
“ASEAN tìm cách để trở thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào cuối năm nay. Thông điệp của chúng tôi chưa bao giờ được cấp bách hơn”, bà nói thêm.
Bản Tuyên bố có tựa đề “Đòi lại Cộng đồng ASEAN cho người dân”, nêu bật lên bốn ưu tiên khu vực:
i. Công lý của sự phát triển;
ii. Các tiến trình xây dựng, lãnh đạo dân chủ, và các quyền tự do căn bản;
iii. Hòa bình và an ninh; và
iv. Phân biệt đối xử và bất bình đẳng.
APF là một hội nghị hàng năm thu hút hàng ngàn thành viên của xã hội dân sự trên toàn ASEAN. Hơn 3.000 người đã tham dự Hội nghị 2014 tại Myanmar. Hội nghị này được tổ chức song song với Hội nghị thượng đỉnh ASEAN. APF 2015 sẽ được tổ chức vào tháng Tư tại Malaysia.
“Tuyên bố này là một kết quả của nhiều tháng thảo luận giữa các xã hội dân sự ASEAN. Dự thảo tuyên bố đã được chuyển đến hàng trăm thành viên của xã hội dân sự, và thảo luận tại ba buổi tham vấn cấp vùng với sự tham dự của hàng chục đại diện xã hội dân sự”, cô Gia Hartman của “Liên minh Bãi bỏ chế độ nô lệ hiện đại ở châu Á”, một tổ chức cấp vùng, cho biết. Cô Hartman cũng là đồng chủ trì quá trình soạn thảo bản Tuyên bố.
“Với một nhóm đa dạng những người đấu tranh cho các vấn đề khác nhau như vậy, chúng tôi tự nhiên đã có một số bất đồng trong quá trình soạn thảo. Nhưng cuối cùng, chúng tôi đã đến được với nhau dựa trên các thể thức ràng buộc như độc lập, minh bạch, dễ tiếp cận, mang tính đại diện, tham dự, đa dạng, và bao quát. ”
Đây là năm thứ mười xã hội dân sự ASEAN tổ chức hội nghị này. Hội nghị đầu tiên được tổ chức tại Malaysia trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN trước của Malaysia vào năm 2005.
“Tại các diễn đàn APF trước, chúng tôi đã soạn thảo các báo cáo trong chính hội nghị, và tuyên bố sẽ được trao cho các chính phủ ASEAN tại Hội nghị thượng đỉnh”, ông Jerald Joseph của Pusat Komas ở Malaysia, chủ tịch của APF 2015 giải thích.
“Tuy nhiên, năm nay chúng tôi đưa ra bản Tuyên bố này ngay tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN, chỉ một vài tháng trước Hội nghị thượng đỉnh. Chúng tôi hy vọng điều này sẽ cho phép có thời gian rộng rãi để các chính phủ và đại diện xã hội dân sự có thể đối thoại cởi mở và mang tính xây dựng, để tiếng nói của người dân được đưa vào quá trình ra quyết định của ASEAN, “ông nói thêm.
Bản Tuyên bố sẽ được đính kèm theo một bản tóm tắt các khuyến nghị trao cho các chính phủ ASEAN, do APF đưa ra mỗi năm, kể từ năm 2005.
Soe Min Than của Think Centre có trụ sở tại Singapore cho biết, “Thủ tướng Najib Razak của Malaysia cam kết sẽ ‘làm cho ASEAN càng gần với người dân càng tốt’. Chúng tôi hy vọng rằng chính phủ các nước ASEAN sẽ gặp chúng tôi tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN để nhận và thảo luận về bản Tuyên bố”
Thủ tướng Najib Razak đã đưa ra cam kết này trong thời gian tiếp nhận chức Chủ tịch ASEAN từ Myanmar, vào tháng 11 năm ngoái.
“Họ chưa đồng ý gặp chúng tôi-nhưng chúng tôi vẫn sẵn sàng mở cửa nếu họ đổi ý.”
Bản Tuyên bố đầy đủ có thể được đọc tại:
aseanpeople.org/reclaiming-the-asean-community
ĐÒI LẠI CỘNG ĐỒNG ASEAN CHO NGƯỜI DÂN
HỘI NGHỊ XÃ HỘI DÂN SỰ/DIỄN ĐÀN NGƯỜI DÂN ASEAN 2015
TUYÊN NGÔN CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ1. DẪN NHẬP
1.1. Hội Nghị Xã Hội Dân Sự (XHDS)/Diễn Đàn Người Dân ASEAN (ACSC/APF) này đánh dấu lần thứ 10 kể từ buổi tụ hội khu vực lần đầu của XHDS tại Malaysia. Chúng tôi, XHDS trong khu vực Đông Nam Á[1], chào đón sự cam kết của ASEAN từ nhiều năm nay về việc thiết lập một ASEAN nhân vị và một cộng đồng hoà bình, thịnh vuợng. Đáng tiếc và đáng quan tâm một cách sâu sắc, các khuyến nghị của người dân nộp cho các nước thành viên ASEAN từ năm 2005 đã không được thực hiện và cũng không được áp dụng trong bất kỳ một cách có ý nghĩa nào.
1.2. Trong khi các chính quyền ASEAN đang tiến đến phát triển Viễn kiến hậu 2015 cho Cộng Đồng ASEAN, người dân ASEAN tiếp tục gánh chịu các chế độ độc tài và quân phiệt, tình trạng quân sự hoá gia tăng, bạo lực và xung đột vũ trang, sự can thiệp ngoại lai phi pháp, sự thiếu các quyền tự do căn bản và các vi phạm nhân quyền, các tiến trình phi dân chủ, sự quản lý quốc gia kém và nạn tham nhũng, bất công trong phát triển, nạn kỳ thị, sự bất bình đẳng, và chủ nghĩa tôn giáo cực đoan và không bao dung. Sự diễn giải hạn hẹp của ASEAN về các nguyên tắc chủ quyền quốc gia và không can thiệp nội bộ gây trở ngại cho sự hữu hiệu của tổ chức này trong việc đáp ứng các thách đố mang tính khu vực, và người dân tiếp tục bị loại khỏi sự tham gia đầy đủ nhằm ảnh hưởng các tiến trình quyết định chính sách của ASEAN.
1.3. Sự thất bại của ASEAN trong việc đáp ứng có ý nghĩa các vấn đề của người dân bắt rễ sâu từ việc tổ chức đã chọn và tiếp tục theo đuổi phương thức phát triển dựa trên mô hình kinh tế “tân cấp tiến” vốn ưu tiên lợi ích của các tập đoàn doanh nghiệp và các nhóm thượng lưu, bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh, lên trên lợi ích của người dân. Sự tham gia của chúng tôi vào tiến trình ASEAN do đó dựa trên sự phê phán và bác bỏ việc bãi bỏ quy định, việc tư hữu hoá, các chính sách mậu dịch và đầu tư bị điều khiển bởi các tập đoàn doanh nghiệp và nhà nước mà làm tăng những bất bình đẳng, tăng tốc tình trạng gạt ra lề và bóc lột, và cản trở hoà bình, dân chủ, phát triển, và tiến bộ xã hội trong khu vực.
1.4. Kiểm điểm quá trình 10 năm tham gia trong ASEAN, và sau nhiều cuộc tham khảo ý kiến rộng rãi[2], chúng tôi nay nhắc lại các khuyến nghị trước đây và nhấn mạnh bốn ưu tiên mang tính khu vực và những mối quan tâm bao quát và xuyên suốt.
2. CÁC ƯU TIÊN KHU VỰC
2.1. Công lý trong Phát triển
2.1.1. Mô hình phát triển của ASEAN về hội nhập khu vực, và những thoả thuận mậu dịch và đầu tư không cân bằng được thương lượng và thoả thuận bởi các nước thành viên đã thất bại trong việc bảo đảm công lý về tái phân phối, kinh tế, giới tính, xã hội và môi trường, hoặc quy trách nhiệm giải trình. Hậu quả là thêm bất công, thiếu bảo vệ xã hội, từ chối cơ sở hạ tầng cơ bản cho thông tin và truyền thông, suy thoái môi trường, tác động xấu của biến đổi khí hậu, và sự tước đi có hệ thống các quyền truy cập của người dân đối với đất đai, nước, thực phẩm an toàn và bổ dưỡng, và các nguồn lực khác. Các công trình kích cỡ lớn về quặng mỏ và các công trình khai thác khác, sự tăng trưởng ngành nông nghiệp mang tính cách tập đoàn kinh doanh (kể cả thúc đẩy biến đổi GEN sinh vật), ngành ngư nghiệp mang tính cách thương mại và tập đoàn kinh doanh, và sự tăng trưởng nuôi trồng thuỷ sản theo tập đoàn kinh doanh tiếp tục vi phạm quyền của các cộng đồng địa phương trong ASEAN.
2.1.2. Mặc dù mọi quốc gia thành viên ASEAN bỏ phiếu thuận cho Tuyên ngôn LHQ về Quyền của các Dân tộc Bản địa (UN Declaration on the Rights of Indigenous Peoples, UNDRIP), “phát triển quốc gia” vẫn được dùng làm cớ để vơ vét và trưng thu đất, lãnh thổ và nguồn lực của người dân bản địa. Hơn nữa, chính sách quốc hữu hóa đất đai thuộc sở hữu của cá nhân, cộng đồng tôn giáo, và các dân tộc bản địa biện minh cho hành động chiếm đất và càng gạt ra lề ngày càng đông số người đã và đang bị tước quyền kinh tế, chính trị, và xã hội.
2.1.3. Nhân quyền của phụ nữ bị đe dọa về cơ bản bởi các chính sách và chương trình thoái hoá đang công cụ hoá và khai thác phụ nữ dưói danh nghĩa phát triển. Phụ nữ, trẻ em gái, và các nhóm bị gạt ra lề khác tiếp tục bị buôn bán và gánh chịu bạo lực tình dục và giới tính đe dọa đến nhân phẩm và nhân quyền.
2.1.4. Việc tự do hóa thị trường lao động đã tăng số việc làm bấp bênh và sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến quyền của người lao động, đặc biệt là phụ nữ, và bao gồm người lao động địa phương và di công, lao động tình dục, lao động ô sin, và những người lao động trong khu vực không chính thức bất kể tình trạng có hay không có giấy tờ hợp pháp của họ.
2.1.5. Tình trạng di công cưỡng bức trở nên trầm trọng hơn khi nhà nước khước từ người lao động việc làm tốt và lương đủ sống, quyền tổ chức và thành lập nghiệp đoàn, điều đình tập thể, bảo đảm thời kỳ hưởng dụng, an sinh xã hội, an toàn nghề nghiệp, tiếp cận dịch vụ y tế an toàn và giá phải chăng, gồm sức khỏe và quyền tình dục và sinh sản, tiếp cận giáo dục có phẩm chất, bảo vệ khỏi bạo hành, và một quy trình hiệu quả nhằm quy trách nhiệm đối với các kẻ buôn người. Sự thất bại của các quốc gia gốc trong việc bảo vệ công dân bị xuất khẩu lao động của họ, và sự truy tố của chính quyền nhắm vào những công nhân tố giác sự bóc lộc, làm tăng nguy cơ lạm dụng và buôn người.
2.1.6. Kế hoạch hội nhập kinh tế khu vực không quy trách nhiệm cho các công ty về các vi phạm nhân quyền, và các tiêu chuẩn xã hội và môi trường. Quả thực, các tập đoàn doanh nghiệp được tăng quyền hạn qua các biện pháp bảo vệ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và chính quyền (investor-state dispute settlement, ISDS) ghi trong Thoả Thuận Toàn Diện về Đầu Tư của ASEAN về bản kế hoạch thực hiện Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN. Cơ chế ISDS này tạo uy thế cho các công ty kiện chính quyền đối với các luật địa phương phục vụ công ích nhưng bất lợi cho các tập đoàn kinh doanh.
2.2. Tiến Trình Dân Chủ, Quản Trị, và các Quyền Con Người và Tự Do Cơ Bản
2.2.1. Trong nhiều năm, ASEAN cam kết phát huy dân chủ và nhân quyền khu vực. Trong một nền dân chủ thực sự, người dân có quyền tham gia đầy đủ, có ý nghĩa, bao hàm mọi thành phần và mang tính đại biểu bởi người dân. Ý dân phải được thể hiện qua sự quản lý quốc gia minh bạch và bầu cử tự do, công bằng và công khai trong một hệ thống đa đảng và đa nguyên. Thế nhưng vẫn không có cơ chế khu vực về tham khảo ý kiến để XHDS trong ASEAN tham gia vào việc biên soạn và phê phán các chính sách khu vực. Các tiến trình bầu cử trong khu vực vẫn bị trục trặc có hệ thống; ý dân tiếp tục bị khống chế ở cả cấp khu vực và quốc gia.
2.2.2. Con số đáng lo ngại của các hạn chế trong khu vực đang khước từ người dân quyền tự do ngôn luận và thông tin, tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, hội họp ôn hoà, và lập hội, cả trong không gian trực tuyến và ngoài đời. Luật ở một số quốc gia khước từ quyền thành lập các tổ chức XHDS, các phong trào quần chúng, các định chế tôn giáo độc lập, các đảng chính trị, và các công đoàn tự do và độc lập.
2.2.3. Các nhân tố nhà nước và phi nhà nước tiếp tục, một cách không bị truy tố, những xâm phạm nhân quyền, kể cả bạo hành bởi công an, tra tấn, và bắt cóc, nhắm vào các nhà hoạt động XHDS. Chẳng hạn, đã không có sự điều tra cấp thời và minh bạch vụ Sombath Somphone[3] bởi các chính quyền ASEAN, Uỷ hội Nhân quyền Liên Chính phủ ASEAN (AICHR), hoặc bất kỳ cơ chế nhân quyền nào trong khu vực. Các người bảo vệ nhân quyền tiếp tục bị đàn áp bởi các luật mang tính áp bức, bao gồm luật chống lại các hoạt động như “phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc”, “tuyên truyền chống nhà nước”, “lợi dụng các quyền tự do dân chủ “, và các luật chống xúi dục nổi loạn; các luật này khước từ người dân khoảng không gian chính trị an toàn và xây dựng.
2.2.4. Mặc dù có sự gia tăng vi phạm nhân quyền ở Đông Nam Á , không một cơ chế nhân quyền nào trong ASEAN có khả năng đáp ứng những quan tâm này. Cả Uỷ hội Nhân quyền Liên Quốc gia ASEAN (ASEAN Intergovernmental Comission on Human Rights, AICHR) và Uỷ Hội ASEAN cho Phụ nữ và Trẻ em (ASEAN the Promotion and Protection of the Rights of Women and Children, ACWC) thiếu các cơ chế vững chắc để theo dõi, quy trách nhiệm và thực hiện, và không thể bảo vệ nhân quyền nhất quán với luật và các tiêu chuẩn quốc tế.
2.2 Hoà bình và An ninh
2.2.1. Các tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới tiếp tục diễn ra trong khu vục ASEAN và giữa các quốc gia ASEAN và không thuộc ASEAN. Việc thiếu sự cam kết của các quốc gia trong việc thi hành toàn diện nghĩa vụ ngoài lãnh thổ của họ cũng làm trầm trọng thêm các vấn đề xuyên biên giới. Những xung đột này thường được sử dụng bởi các nhà nước để duy trì sự bài ngoại, thành kiến với nữ giới, và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sự thất bại và bó tay của ASEAN trong việc đem lại hoà bình, công lý và phát triển bền vững trong khu vực đã góp phần cho bất ổn chính trị, tản cư nội địa, tình trạng vô quốc gia, khủng hoảng tị nạn, buôn người, di dân cưỡng bức, tranh chấp biển và hàng hải, vi phạm nhân quyền, sinh kế không an toàn cho ngư dân vùng duyên hải, cạnh tranh tiếp cận và kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bạo hành giới tính và tình dục và các loại bạo hành khác, và mất an ninh tổng quát cho con người.
2.2.1 Tuân thủ sát nguyên tắc không can thiệp nội bộ cho phép các chính quyền hành xử một cách vô tội vạ, duy trì hoặc bỏ qua các vi phạm nhân quyền, như các vi phạm nhắm vào cộng đồng Rohingya; Montagnard, Hmong và Khmer Krom; Bangsamoro; Patani; Papuan và trong các vụ xung đột khác trong khu vực.
2.3.3. Trong các cuộc đàm phán hòa bình và tái thiết sau xung đột, khu vực này đã thất bại trong việc thiết lập một quá trình toàn diện và mang tính đại diện bao gồm tất cả các cộng đồng bị ảnh hưởng và trong việc nhận ra tầm quan trọng của sự đóng góp của phụ nữ và các nhóm bị gạt ra lề khác cho quá trình này. Các cơ chế hiện có[4] về giải quyết xung đột không bao quát các tình trạng xung đột vũ trang cục bộ và chưa hề được dùng một cách hữu hiệu để hoá giải các xung đột đang diễn ra. Không có cơ chế rõ ràng để thực thi các thoả thuận giải quyết tranh chấp và không có các công cụ hoặc cơ chế ngăn ngừa xung đột có tính pháp lý ràng buộc và tính khu vực. Sự thiếu quyết tâm chính trị dẫn đến việc không tuân thủ các thoả thuận về đình chiến và hoà bình.
2.3.4. Các tác nhân nhà nước và phi nhà nước như các doanh nghiệp và định chế tài chánh mà làm nặng thêm khủng hoảng đang diễn ra và/hoặc vi phạm nhân quyền trầm trọng khi xẩy ra xung đột không bị áp dụng khuôn khổ khu vực hay quốc tế nào về quy trách nhiệm. Hơn nữa, lực lượng quân sự và bán quân sự được sử dụng để bảo vệ các khoản đầu tư, chẳng hạn như các dự án khai thác mỏ nước ngoài, các đập, và các đồn điền, làm trầm trọng thêm tình trạng chiếm dụng đất, và vi phạm hòa bình và an ninh của các cộng đồng bị ảnh hưởng.
2.4. Phân biệt Đối xử và Bất bình đẳng
2.4.1. Phân biệt đối xử từ chối người dân những quyền vốn có của họ và duy trì sự mất cân bằng trong quan hệ quyền lực, ngăn chặn việc thực hiện sự bình đẳng về cơ hội, tiếp cận và lợi ích / thành quả. Phân biệt đối xử trong và giao nhau giữa nhiều lĩnh vực, mà có thể dẫn đến sự đàn áp, tác động đến mọi chủng tộc, sự thực hành nội bộ hoặc giữa các tôn giáo hay tín ngưỡng, sắc dân, quốc tịch, tuổi tác, giới tính, giai cấp, quy chế chính trị và kinh tế, năng lực, vị trí địa lý, tình trạng HIV, tình trạng hôn nhân và mang thai, và khuynh hướng/biểu hiện tình dục và bản sắc giới tính (SOGIE). Điều này được thấy trong đời sống cá nhân cũng như trong các lĩnh vực công cộng trong cuộc sống của người dân ở Đông Nam Á.
2.4.2. Sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục được duy trì, một cách trực tiếp và gián tiếp, trong luật và tập quán của các tác nhân nhà nước và phi nhà nước, đặc biệt trong khu vực tư nhân và các nhóm cực đoan. Các tập quán văn hóa, truyền thống, và tôn giáo không phù hợp với các tiêu chuẩn nhân quyền vẫn không được điều chỉnh bởi các chính phủ và đôi khi được sử dụng để biện minh cho các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Họ hành động để áp đặt các hình thức gia trưởng của các chuẩn mực và thông lệ truyền thống, dẫn đến hạn chế và từ chối tư cách pháp nhân riêng biệt, tăng bạo lực đặc biệt trên cơ sở giới tính và tình dục, và thường được dùng để tăng giới hạn trên sự di động và tiếp cận đời sống công cộng của người dân, bao gồm giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản, việc làm, và giữ vị trí lãnh đạo. Vẫn không có các điều lệ rõ ràng và các cơ chế quy trách nhiệm để xử lý các vi phạm bởi các tác nhân phi nhà nước.
2.4.3. Với ASEAN tiến đến hội nhập kinh tế khu vực, tăng trưởng kinh tế không đồng đều và không bền vững sẽ dẫn đến tình trạng nghèo đói ngày càng tồi tệ, bất bình đẳng về tài sản, tài nguyên, năng lượng và các cơ hội giữa các nước, giữa người giàu và người nghèo, giữa nam và nữ giới. Sự bất bình đẳng kinh tế này liên tục ngăn cản người dân ASEAN thụ hưởng những lợi ích của tăng trưởng kinh tế hay thay đổi tái phân phối.
Xem xét những ưu tiên khu vực này, các tổ chức XHDS ở Đông Nam Á nhắc lại các khuyến nghị trước đây của chúng tôi và kêu gọi ASEAN và các nước thành viên ASEAN cấp thời thông qua và thực thi các khuyến nghị bao quát và cụ thể sau đây: