Mùa hè của một đứa trẻ thường ngập niềm vui nhưng mùa hè cái năm tôi lên bảy, mùa hè năm 1975 khi cộng quân Bắc
việt tràn vào miền Nam, lại quá dữ dội, như một vết khứa hằn sâu trong ký ức, không thể nào quên.
Thật ra nỗi lo sợ ly loạn ám ảnh tôi từ lúc Má may cho anh em tôi mỗi đứa một cái túi vải dây rút đựng sẵn mấy bộ đồ và
dặn “đang đêm Má kêu dậy chạy giặc là phải dậy liền nghe chưa”. Có những đêm bị đánh thức bởi tiếng pháo dội về, bọn
tôi choàng dậy đợi lệnh Má. Má nghe ngóng một hồi rồi trấn an: “Không sao đâu, ngủ lại đi tụi con”.
Ba tôi đóng quân ở xa, lâu lâu mới tạt về Sài Gòn thăm nhà. Đi học về mà thấy đôi botte de saut dính đầy bụi đỏ của Ba
ngoài bệ cửa là tụi tôi mừng hết lớn. Ba về, cho tụi tôi đi ăn mì, mua sầu riêng ngoài khu Lakai trên đường Nguyễn Tri
Phương. Mấy chú Tàu thấy ông lính Biệt động quân dắt đám con lóc nhóc chắc hơi sờ sợ mà cũng thương thương nên
múc cho mấy tô mì vịt tiềm đặc biệt, lựa cho trái sầu riêng thiệt ngon. Ba về, Má được những đêm ngon giấc… Nhưng ôm
vai, bá cổ, áp vào ngực Ba để nghe mồn một tiếng thở khò khè được vài hôm là ông lại đi biền biệt. Má tôi lại một mình
buôn bán lo cho bầy con năm đứa, đêm đêm lại đốt nhang van vái Trời Phật cho Ba tôi bình yên trong hòn tên mũi đạn, cho
hòa bình mau tới. Cứ thế, chiến tranh xa mà gần…
Ba tôi, bệnh suyễn ngày càng nặng, được giải ngũ chỉ vài tháng trước ngày miền Nam mất. Những ngày miền Nam sắp rơi
vào tay cộng sản, nhà tôi ở khu Trường đua Phú Thọ nhưng kẹt ở Củ Chi với Nội tôi. Bác tôi, Trung tá Bộ Tổng tham mưu,
thấy tình hình lộn xộn đã nhắn Ba tôi về ráng đưa bà lên Sài Gòn “cho dễ tính”. Từ ngày ông Nội tôi mất, con cái lớn lên
xuống Sài Gòn lập nghiệp, bà Nội tôi sống thui thủi một mình, ai nài nỉ cũng không chịu về ở chung. Đêm đêm Việt cộng
đắp mô ngoài quốc lộ trước nhà, có khi gõ cửa “má má con con” xin gạo, Nội sợ lắm nhưng không bỏ được “mồ mả ông
bà phải nhang khói”.
Ba tôi đâu dám để mấy mẹ con tôi ở nhà lúc loạn lạc như vậy, nên cả nhà chất lên hai chiếc xe Honda dame chạy lên trên
đó. “Thôi thì sống chết có nhau!”, Má tôi dứt khoát nói.
Ở cái nôi cộng sản, “đất thép thành đồng” Củ Chi, có khi Việt cộng ở sát nhà mình, sớm tối qua lại xin chút dầu, chút nước
mắm nên vừa lên tới Ba tôi đã dặn tụi tôi ở yên trong nhà, đừng chạy ra vườn leo trèo hái trái như mọi lần và nghe súng nổ
là chạy xuống hầm ngay. Ba má tôi chỉ định ở một hai hôm rồi quay xuống Sài Gòn, nào ngờ Nội trượt chân té rồi không
ngồi dậy được, đành nấn ná cho Nội khỏe hơn.
Nghe tiếng pháo kích xa xa, Nội tôi lo lắng ra mặt, lâu lâu lại không kềm được tiếng thở dài. Có gia đình tôi lúc bà đau yếu
thế này Nội mừng lắm nhưng lại lo cho Ba tôi. Ở trên này như bị trói chân trói tay, không liên lạc được với bác Ba tôi để biết
tình hình, Ba tôi đứng ngồi không yên.
Nhà Nội tôi nằm ngay mặt Quốc lộ 1, sáng 30/4 xe gắn cờ Mặt trận giải phóng rầm rập chạy vô Sài Gòn. Ba tôi ngồi trong
nhà nhìn ra thấy, biết là chuyện không xong, vội vã đóng hết cửa nẻo, vào buồng ôm cái radio nghe tin tức. Thấy mặt Ba
căng thẳng tụi tôi chỉ dám ngồi xa xa trên bộ ván gõ, gần trưa mà không thấy đói bụng như mọi khi. Nghe Ba đấm mạnh tay
xuống bàn, thốt ra hai tiếng “Khốn nạn!”, tôi sợ lắm. Chưa bao giờ Ba tôi như vậy cả. Sau này tôi mới biết đó là lúc Tổng
thống Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, kêu gọi binh sĩ buông súng.
Năm hai mươi tuổi Má tôi di cư vào Nam nên quá hiểu cộng sản. Má tôi tin chắc ở cái đất Củ Chi biết quá rõ gia đình bên
Nội tôi ba đời làm quan, đến thời bác tôi, ba tôi đi lính Cộng hòa thì không thể nào yên. Nhưng có sợ thì cũng chạy đâu cho
thoát…
Tôi chỉ nhớ hôm đó là ngày giỗ ông Nội tôi. Đám giỗ buồn hiu hắt vì bác tôi ở trong trại tù “cải tạo”, các cô tôi chỉ tạt về thắp
nhang cho ông Nội rồi đi ngay. Tối đó, một đám người lăm lăm súng ống kéo tới nhà Nội tôi, giộng báng súng vào cửa rầm
rầm kêu Nội tôi ra ngoài sân banh ‘họp với bà con’. Ba tôi vội vàng mặc áo đi theo Nội. Má tôi cũng vội vã dắt díu tụi tôi chạy
theo.
Làm sao tôi có thể quên được cái quang cảnh hệt như đấu tố đêm ấy, khác chăng là nhiều người vẫn còn nhớ những gì
ông bà tôi làm cho mảnh đất này. Nếu không làm gì có con kinh mang tên Cai tổng dẫn nước cho họ cày cấy. Đất đai ông
bà tôi khai khẩn mà nên chớ có cướp giật của ai. Bà Nội tôi tiếng là bà huyện chứ có lúc nào ngơi tay, mà cũng có tá điền
nào đong lúa bị bà khó dễ đâu. Cho nên họ chỉ yên lặng nhìn đám cán bộ diễn tuồng. Tấn tuồng cướp đất. Nội tôi như chết
đứng ở giữa sân, Ba tôi đứng cạnh nắm lấy tay Nội cho bà bớt sợ. Tên cán bộ kè kè khẩu súng lục bên hông, đi tới đi lui,
hoa tay múa chân hài tội ba đời dòng họ tôi để rồi tuyên bố rằng từ nay đất đai của Nội tôi ‘là của nhân dân’.
Má tôi đưa mắt ra dấu cho Ba tôi nhẫn nhục nhưng ông không dằn nổi, bật dậy chỉ vào mặt tên cán bộ: “Thời Tổng thống
Thiệu, đất đai của Má tôi bị truất hữu được bồi thường. Còn các anh cướp cả miếng ăn của một bà già gần 80 tuổi!”. Tiếng
súng lên cò rôm rốp. Má tôi nhắm mắt lại, nắm chặt tay tôi, chờ nghe một tiếng nổ… Nhưng không, hắn không nổ súng vì
ánh mắt bà con chòm xóm đổ dồn vào. Ai mà không biết ông nội hắn từ miệt dưới trôi giạt tới đây, được ông cố tôi cưu
mang, rồi dựng vợ gả chồng. Tới thời cha hắn lại tiếp tục làm ở Nhà việc cho ông Nội tôi nên mẹ hắn, mới đây thôi, qua
thăm bà Nội tôi, vẫn đon đả: “Bà Huyện khỏe không? Lóng rày cậu Sáu hay về ở với bà, cũng mừng”. Hắn gằn giọng: “Rồi
mày sẽ chết kiểu khác. Đồ ngụy!”.
Sau đêm đó Nội tôi “vô sản” như họ mong muốn, không ruộng, không rẫy, chỉ còn lại căn nhà bà đang ở, rồi cũng phải cắt
bớt mảnh đất bên hông nhà cho cán bộ làm nhà.
Gia đình tôi trở lại Sài Gòn chịu chung cái khổ của cả triệu người miền Nam mất nước. Tuổi thơ của tôi cũng bị bóp nát,
không còn những ngày náo nức về quê nội, không còn cái hạnh phúc được làm con người đàn ông ngang tàng nhưng dịu
dàng ấy nữa. Nỗi buồn thời cuộc đổi dời, nghèo khó, bệnh tật, thiếu thốn thuốc men đã cướp mất ba tôi khi ông mới hơn
40. Không còn Ba, anh em tôi chông chênh chống chọi với cái xã hội một màu xám xịt, của “chủ nghĩa lý lịch”…
Sau này biết được các anh con bác tôi vào gọi gia đình tôi cùng ra ngoài bến tàu di tản nhưng không gặp, bà Nội tôi cứ
than thở: “Nội làm khổ tụi con!”. Trước khi mất Nội tôi vẫn chưa an lòng, tụi tôi chỉ biết an ủi: “Tụi con khổ thật đó, nhưng
bao nhiêu người cùng chung số phận mà Nội!”.
Muộn mằn lắm tôi mới có mặt ở đây. Nhiều đêm nhìn hai đứa con gái say sưa giấc nồng, tôi thấy mình còn may mắn hơn
biết bao người khác khi bước qua những tháng ngày dữ dội, đau thương để tới được mảnh đất bình yên này.
Yến Hoàng