Truyện Kiều được dịch ra nhiều ngoại ngữ. Riêng tiếng Pháp, có trên 10 bản dịch khác nhau. Nhưng thơ không thể dịch ra ngoại ngữ mà không đánh mất cái hồn của nó, cái thi vị của nó, dù được dịch ra cũng bằng thơ hay văn xuôi tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v... Dưới đây, xin trích dẫn đoạn dịch 8 câu nói trên ra văn xuôi tiếng Pháp của Xuân Phúc và Xuân Việt trong cuốn Kim Vân Kiêu do nhà Xuất Bản Gallimard nổi tiếng của Pháp in năm 1961 (Nguyen Du, Kim Van Kieu, CONNAISSANCE DE L’ORIENT, collection UNESCO d’oeuvres representatives). Bài dịch gẫy gọn, sáng sủa nhưng không thể nào chuyên chở được tình ý, hồn thơ, và ngôn ngữ thơ của nguyên tác:
Il monte en selle; elle lâche le pan de sa tunique. L’automne a teint des couleurs de l’adieu la forêt d’érables. Un tourbillon de poussière rose emporte la selle du cavalier. Bientôt, on le perd de vue derrière l’épaisseur des vertes mu^raies. Elle rentre, ombre solitaire, le long des cinq veilles nocturnes. Seul au loin, il parcourt les dix mille stades. Le disque de la lune, qui l’a partrgé en deux? Une moitié s’imprime sur l’oreiller soliraire, l’autre moitié éclaire la route interminable.
(Tạm dịch: Chàng lên yên ngựa; nàng buông tay khỏi chéo áo của chàng. Mùa thu đã tô màu biệt ly lên rừng phong. Một đám bụi hồng quay cuồng mang theo chiếc yên ngựa của người kỵ sỹ. Chẳng mấy chốc, ta không thấy chàng đâu nữa sau ngàn dâu xanh. Nàng về, chiếc bóng cô đơn suốt năm canh dài. Một mình xa xôi, chàng vượt qua vạn dặm. Vầng trăng, ai đã chia nó ra làm hai? Một nửa in lên gối chiếc, nửa kia soi sáng con đường dài bất tận.)
*
Để thoát ly một phần nào cái thể điệu đều đặn của thơ lục bát, thể song thất lục bát ra đời. Với thể này, hai câu 7 chữ được đặt trước câu 6 rồi đến câu 8. Cách hiệp vần và luật bằng trắc như sau.
Vần:
Chữ cuối của câu 7 trên vần với chữ thứ 5 của câu 7 dưới, đều là vần trắc; tiếp đến là chữ cuối của câu 7 dưới vần với chữ cuối của câu 6, đều là vần bằng; tiếp đến nữa là theo lối gieo vần theo lối lục bát. Thế là được 1 đoạn 4 câu. Để chuyển qua đoạn kế tiếp, chữ cuối của câu 8 của đoạn vừa rồi vần với chữ thứ 5 của câu 7 trên của đoạn tiếp theo. Và cứ thế, tiếp tục.
Bằng trắc:
2 câu 6 và 8 theo đúng luật của thể lục bát. 2 câu 7:
Câu 7 trên: 0 trắc trắc bằng bằng trắc trắc
Câu 7 dưới: 0 bằng bằng trắc trắc bằng bằng
(số 0 bằng trắc tuỳ nghi, không kể. Những chữ còn lại theo quy tắc nhất tam ngũ bất luận, nhì tứ lục phân minh. Những chữ in nghiêng có thể bằng hoặc trắc)
Ví du:
Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng
Ngoại lệ: Khi 2 câu 7 đối nhau, hoặc được đặt sóng với nhau, chữ thứ 3 của câu 7 trên theo quy tắc phải trắc có thể đổi thành bằng:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
(đối nhau)
Chàng từ đi vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao
(sóng với nhau, không đối)
Đôi khi có biến cách trong gieo vần. Xin nêu vài ví dụ trong Chinh Phụ Ngâm:
Chín lần gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch hẹn ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây
...
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vỵ ào ào gió thu
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc con non
Ta vừa đề cập đến vần, điệu, luật bằng trắc, trong thơ lục bát và song thất lục bát. Thật ra các quy luật ấy được rút ra từ văn chương truyền khẩu trong dân gian, trong ca dao, trong thơ cũ, Thơ Mới tiền chiến. Nó quá quen thuộc. Nó đã nằm trong máu, trong thịt của người làm thơ. Cho nên, khi làm hai loại thơ ấy, người thơ không cần phải ôn lại hay để ý đến các quy luật như vừa nêu.
Thơ lục bát có thể có từ thời Hai Bà Trưng như trên đã nói. Thế thể song thất lục bát ra đời vào lúc nào? Trước thế kỷ thứ 14 chăng? Nguyễn Trãi (1380 - 1442) đã làm những bài trong Gia Huấn Ca theo thể đó. Xin trích dẫn 4 câu đầu:
Phép Dạy Con
Ngày con đã biết chơi biết chạy
Đừng cho chơi cầm gậy trèo cao
Đừng cho chơi búa chơi dao
Chơi vôi chơi lửa chơi ao có ngày ...
Đến thế kỷ thứ 18, những tác phẩm rất giá trị như Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), lời thơ não nuột, réo rắt, và đầy nữ tính -- hay của Phan Huy Ích (1750 - 1822)? --, Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1798) rất hay nhưng mang tính chất “đàn ông” hơn là giọng oán than của một cung nữ, đều được viết theo thể song thất lục bát. Ngay cả Nguyễn Du, bậc thầy của thể loại lục bát, cũng từng ghé mắt qua thể song thất lục bát bằng một thi phẩm bất hủ dài đến 184 câu: Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Xin trích 4 câu đầu tiên:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng
Xin trở lại với đề tài “Biệt Ly”, lần này biệt ly trong thơ song thất lục bát Chinh Phụ Ngâm. Vì là sự phối hợp của thơ 7 chữ và thơ lục bát, thể song thất lục bát cho phép người làm thơ có được nhiều áp dụng về thi pháp hơn, nhất là về mặt âm thanh và gieo vần – bằng trắc ở yêu vận (vần giữa câu) và cước vận (vần cuối câu) thay nhau xuất hiện khiến âm điệu câu thơ biến chuyển nhanh chóng và đa dạng. Nhờ vậy, 408 câu trong Chinh phụ Ngâm đã tuôn dào dạt, réo rắt, như dòng nước chảy, như tiếng sáo diều, như lời than thở dồn dập trùng trùng điệp điệp không bao giờ dứt của người cô phụ . Đề tài “Biệt ly” trong Chinh Phụ Ngâm cũng được viết đến 40 câu từ câu 25 đến câu 64[5].
Đây là một đoạn thơ hay. Xin trích dẫn nhận xét của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận về 40 câu thơ nói trên:
“ ... Nhờ sư phụ họa của màu sắc: nước trong như lọc, cỏ mọc còn non, áo đỏ tựa ráng pha, ngựa trắng như tuyết, ngàn dâu xanh ngắt, của âm thanh: tiếng nhạc ngựa, tiếng trống, tiếng địch, của hình ảnh hào hùng: “Múa gươm rượu tiễn chưa tàn/chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo” và nhất là tình cảm đượm buồn, trang nhã, đằm thắm của chinh phụ, ta đã cảm thấy một cách sâu sắc vẻ đẹp Á Đông và cổ kính cùa một cảnh ly biệt.”
Ngoài ra, về mặt thi pháp, tác giả tận dụng một vài ưu thế của thể thơ song thất lục bát so với thể thơ lục bát, đó là phép đối và liên hoàn.
Phép Đối: trong thơ lục bát có phép đối trong phạm vi từng câu riêng lẻ (tiểu đối), chẳng hạn đối trong câu 6 hoặc đối trong câu 8, như đã nêu trong phần “Biệt Ly” của Nguyễn Du. Ngoài ra, câu 6 không thể đối với câu 8.
Trong thơ song thất lục bát, trong phạm vi câu 6 hoặc câu 8 lẽ tất nhiên có thể có tiểu đối (câu thứ 343: “nghĩ bạc mệnh” đối với “tiếc niên hoa”; câu thứ 16 “sầu lên ngọn ải đối với oán ra cửa phòng”). Với những cặp câu 7, thủ pháp đối ngẫu được sử dụng rất nhiều và rất chỉnh:
Quân trước đã gần ngoài Doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
...
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn
...
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in
...
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương phố bến xưa
Liên hoàn (chữ cuối của câu trước được chữ đầu của câu kế tiếp lặp lại): Thủ pháp này không được sử dụng trong thể lục bát, trái lại trong Chinh Phụ Ngâm có nhiều đoạn liên hoàn đặc sắc:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
...
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai
Có thể kể thêm 6 câu song thất lục bát dưới đây. Cùng với liên hoàn là những thủ pháp nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trưng, điệp ngữ, và rất nhiều hình ảnh, ngôn từ láy đi láy lại, tất cả họp lại diễn tả nỗi bi thương, lời oán thán, miên man, bất tận. Một điểm đặc biệt là chỉ trong 6 câu (42 chữ), có rất nhiều điệp ngữ. Thế nhưng các câu thơ tuôn ra như dòng suối, không chút vấp váp, cấn cái, trái lại quấn quýt nhau, nâng đỡ nhau, âm vang, ray rứt.
Một đặc điểm khác nữa, câu cuối trong 6 câu đưới đây muốn nói gì? Phải chăng người chinh phụ đáng thương đó đã trải qua nhiều đêm thức trắng? Không chợp mắt mới chứng kiến được, mới đếm được, trong “đêm sương” hoa mấy lần rụng. (Bà Đoàn Thị Điểm đã dịch rất thoát, nếu không muốn nói sáng tạo ra câu cuối cùng này, nghe hay hẳn lên. Nguyên tác: Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường/Hoa lạc như kim kinh kỷ sương nghĩa là Hoa vàng già rồi rụng đầy tường/Hoa rụng đến nay đã trải qua mấy năm?).
Đây, 6 câu thơ ấy:
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
(người viết in nghiêng và tô đậm)
*
Trên đây là ca dao, là những vần thơ cổ, là những bài thơ thuộc phong trào Thơ Mới tiền chiến. Qua hậu bán thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thơ lục bát và song thất lục bát vẫn còn tồn tại. Một nhà thơ rất tài ba, đầy sáng tạo, ngôn ngữ rất phong phú, lắm khi pha trộn với sự tinh quái, nghịch ngợm, có lúc đi đến “mép rìa” của huyền bí, kinh dị, điên loạn, thay vì tiếp cận với các thể loại hiện đại, hậu hiện đại, vẫn thường sử dụng những lối thơ cũ như thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, nhất là thơ lục bát, và thỉnh thoảng song thất lục bát. Đó là Bùi Giáng. Thử đọc vài ba bài thơ lục bát trong thời gian đầu của nhà thơ này:
Anh Về Bình Dương
Anh về đất rộng Bình Dương
Trái cây và lá con đường cỏ xanh
Môi người nắng ngọt vây quanh
Nụ cười Nam Việt yên lành bấy nay
Em về đẩy mộng lên vai
Chào xuân ngả nón bụi ngày gió ru
Mừng vui con mắt ngây thơ
Mày nghiêng như lệ pha mờ chiêm bao
Yêu nhau cảm động dường nào
Anh về đất rộng cúi chào Bình Dương
Kỷ Niệm
Trời xưa mây đổ dặm ngàn
Bước lang thang đã hao mòn mấy thu
Chập chờn hình ảnh phiêu du
Ghì môi máu nhạt giữa mù mịt sương
Quê chàng trời quạnh Liêu Dương
Quê chàng đất quạnh trên đường chia phôi
Tình em mây phủ chân đồi
Phụng dâng lở dở nước trời mênh mông
Mắt Buồn
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Chữ nghĩa bay lượn, mới mẻ, ý tình tha thiết, man mác. Và giữa những hàng chữ dâng lên một nỗi niềm khác – một chút yêu đương, một chút băn khoăn, một chút áo não và rất nhiều hoang mang, cô đơn.
Sau đó, trong một bài viết ngắn, ông nhắc nhở đến Huy Cận, đồng thời bày tỏ quan niệm của mình về thơ:
“A thân thể! Một cái bình tội lỗi
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy
Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.
Và cổ đứng như mình cây vững chãi
Và vai ngang như mặt nước xuôi dài
(4 câu trên trích từ bài Thân Thể trong tập Lửa Thiêng của Huy Cận – NT chú thích)
Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thị là thiên tài. (Còn như cái bài Tràng Giang của ông chính ông cũng lấy làm đắc ý lắm, thật ra còn vướng vướng, không có chi là huyền ảo cả.
Và cái câu:
Tôi đội tang đen và mũ trắng
Ra đi không hẹn ở trên đường
Ông viết hai câu kỳ tuyệt như thế, thì thử hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi cgạy mất hút. Toàn khối thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ bung lông lốc, vì cái trái lựu đạn đơn giản đó của ông tung ra.” (Thi Ca Tư Tưởng, CADAO xuất bản lần thứ nhất 12/69, SAIGON – VIỆT NAM)
Bùi Giáng vẫn có thói quen đưa đẩy ngọn bút của mình đến chỗ không kiểm soát nổi. Mặt khác, căn cứ vào ý kiến của ông về thơ Huy Cận vừa nêu trên (Đặt bài Thân Thể ít người biết lên trên bài Tràng Giang nổi tiếng), ta nhận thấy ông càng về sau càng xa lánh chữ nghĩa du dương, hoa mỹ, dễ dãi, chải chuốt của Thơ Mới thời Tiền Chiến. Ông muốn đi theo con đường khác, muốn đi sâu vào thế giới u uẩn khó nắm bắt, hoặc muốn chụp lấy những rung động khi ẩn khi hiện, chợt lóe chợt tắt, và viết bằng một thứ ngôn ngữ nghịch ngợm, lai rai, “chịu chơi”, “hồ đồ”, “gùn ghè, gay cấn”, có khi đi đến chỗ hỗn mang, quái dị. Xin trích dẫn vài ba bài thơ trong tập thơ Mưa Nguồn và Lá Hoa Cồn (An Tiêm, Sài Gòn, 1973) của Bùi Giáng:
Trời Mưa Trên Đầu
Trời mưa lộp độp trên đầu
Thì xin Thượng Đế chia sầu với tôi
Thuở còn trẻ dại rong chơi
Thì sung sướng với mưa rơi trên đầu
Bây giờ cái sướng đi đâu
Cái gì ở lại ra màu dở dang
Chiêm bao rớt hột hàng hàng
Từ xiêm trắng xuống hỗn mang trên đầu
Gái Ăn Quà
Chị em xuống phố ăn quà
Gặp lưu manh đón đường tra hỏi gì
Lặng nhìn mái tóc từ bi
Lắng nghe môi miệng nhu mì mở ra
(Chị em xuống phố ăn quà
Làn mi liễu mộng miệng hòa chan chan)
Làn mi thổi gió lên ngàn
Chị em xuống phố hoà chan ăn quà
Vô ngần miệng ngọc mở ra
Môi răng thể lệ ăn quà thể quang
Chị em xuống phố hòa chan
Ăn quà rất mực thênh thang thật là
Hai bài thơ thật hay, ý nghĩa đột ngột, “phiêu bồng”, chữ dùng lạ lùng, mới mẻ. Ông còn đưa vào thơ nhiều tiếng rất bình dân chen lẫn với chữ nghĩa thông thái. “Gái Ăn Quà” là đề tài của thơ thì cũng là chuyện chưa từng thấy trong văn học Việt Nam. Bài này cho thấy tấm lòng thương yêu bao la, đằm thắm, trìu mến của tác giả đối với phái nữ. Không phải chỉ những nữ lưu cao sang như Nam Phương Hoàng Hậu, Trí Hải Ni Cô, Hà Thanh, Kim Cương, Marilyn Monroe, vân vân, mà cả những người vô danh trong đám dân dã. Môi, miệng, răng, mi, tóc của con gái ăn quà trông sao mà “nhu mì mở ra” như thế, dễ thương đến thế. Thảo nào lưu manh đón muốn “tra hỏi gì”, muốn trấn lột hay sách nhiễu tình dục chăng, cũng đành phải “lặng nhìn”, lắng nghe”, quên khuấy đi mất cái ý định sàm sỡ của mình.
Xin trích mấy đoạn để biết thêm “tấm lòng” của Bùi Giáng đối với phái đẹp.
Đừng nói bậy về “Cô Bán Phở” nhé:
Hai cô bán phở dịu dàng
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
“Thôn Nữ” quá hấp dẫn:
Em xin chàng chớ lai rai
Con đường thôn lấm ngày dài chi mô
Mở môi ngôn ngữ hồ đồ
Vén xiêm em lội xuống hồ nước kia
“Gái Chửa Hoang” đầy cám dỗ khiến tôi chưa chịu về:
Hội nào em lỡ chửa hoang
Và em đã khóc lệ tràn như mưa
Bây giờ tôi đã quên xưa
Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về
Nhưng khi viết về Phùng Khánh (tức là ni cô Trí Hải, nhỏ tuổi hơn Bùi Giáng nhiều, NT chú thích), cũng có chút bỡn cợt gọi nhân vật nữ này là mẫu thân, ông đã tỏ rõ tấm lòng thương yêu nồng nàn chan chứa xen lẫn với buồn tủi, ngậm ngùi, chẳng khác gì đứa con thơ côi cút vừa trông thấy mẹ mới về đứng ở đầu sân bỗng dưng mẹ bỏ đi đâu mất:
U hoài đầu mộng hôm qua
Mẫu thân phùng khánh thật là u u
Chân đi từng bước hư phù
Mộng đi từng bước tuyệt trù ống chân
Mẹ về đứng giữa đầu sân
Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ đi
Là một người uyên bác với tấm lòng bao la, ông đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm văn, triết, dịch thuật, và nhất là thơ. Thơ của ông rất đa dạng về tư tưởng, về ngôn ngữ, trong giai đoạn đầu. Sau đó, ông bước thêm một bước nữa trong lối sử dụng “chữ nghĩa lai rai, gùn ghè, chịu chơi, gay cấn”. Ví dụ bài thơ dưới đây làm theo thể song thất lục bát (trong bài viết này, để được tập trung, xin chỉ trích dẫn thơ lục bát và song thất lục bát của nhiều tác giả, và của Bùi Giáng trong khi nhà thơ này có nhiều bài rất hay viết theo các thể loại khác):
Bà Hiệu Trưởng Bước Đi Đệ Nhất
Bà hiệu trưởng bước đi đệ nhất
Cô giáo viên bản chất nữ sinh
Chào xuân mật niệm u tình
Biên thành bắc húc bình minh nam triều
Bà đi bước hoang liêu ngờ vực
Cô bước theo càng lúc càng nghi
Chỉn e trận trận giai kỳ
Ruộng nương nảy lúa hột phì nhiêu thơm
Bà đi bước sớm hôm tề chỉnh
Gió tương lai vẫn thỉnh cầu sương
Nắng vàng trút lục nghìn phương
Bà về phố thị cô mường tượng thôn
Hình dung bước hà sơn như thể
Láng giềng dàng hội lễ tháng ba
Biển dâu bước một chan hoà
Bà vào rún đất cô ra chân trời
(Đệ Nhị Bà Cô
về U Thâm Đệ Nhất )
Cảm tưởng đầu tiên là càng đọc càng thấy bài thơ thật lạ, thật hay, ngôn ngữ thật tân kỳ, ngộ nghĩnh. Nhưng tác giả muốn nói gì? Phải chăng bà thì khắc khổ, ngờ vực; cô thì sợ sệt, hoang mang? Phải chăng bà gay gắt, khó chịu; cô ngây thơ, phục tùng? Phải chăng bà đã bị đô thị hóa, hướng “về phố thị”, bó thân vào “rún đất”; cô vẫn còn mơ màng những bước phiêu bồng hoang dã? Nghĩa là khoảng cách giữa bà và cô còn xa lắm? Nhà thơ “nể” bà nhưng “quý” cô? Bà đã bị tha hóa, cô còn nguyên si? Ấy là người viết chỉ “đoán mò” những “ý đồ” của tác giả. Có lẽ đối với Bùi Giáng, câu chuyện giữa bà hiệu trưởng và cô giáo trẻ là điều thứ yếu, là cái cớ để từ đó tác giả vung bút múa may đùa cợt với ngôn ngữ.
Về sau nhiều lúc tâm thần của ông không ổn định, thơ của ông nghe như những lời mê sảng, chẳng lóe cho ta thấy chút ánh sáng nào. Loại thơ này khá nhiều trong kho tàng thơ đồ sộ của Bùi Giáng. Tôi chỉ xin trích dẫn một bài theo thể lục bát, một bài theo thể song thất lục bát:
Âm Thanh
Âm thanh chạy tuột lên đường
Tồn lưu thái thậm vô thường cảo thơm
Gà con gãy cẳng cá tôm
Chuyên cần trì ngự bao hàm trì lưu
Tan canh eo óc dê cừu
Sơ lan vãn huệ xin trừu tượng bông
Cô nương máu giục phi hồng
Ngọ về đứng nắng sương đồng chảy tuôn
Đầy vơi ngôn ngữ cỗi nguồn
Ngậm cười mở ngọn mối buồn trung niên
Tứ Diện Ca
Quả ấn độ bà là mật túy
Trái xiêm la giáp trĩ phong phiêu
Em chanh chua ngọt ngọn triều
Thiền vu khâm mệnh cung thiều hằng sa
Số đếm lộn ra tòa kiếp số
E rằng sai âm hộ ôn hinh
Lầm than tứ diện tâm tình
Quy y tam bảo lục trình trở cơn
A tăng kỳ kiếp liên tồn
Thoái tàng ư mật lá cồn lập thu
*
Càng ngày các loại thơ cũ, nhất là thơ lục bát và song thất lục bát, càng bị thờ ơ, nếu không muốn nói rẻ rúng. Trước những tấn công ồ ạt của các phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là từ khi truyền thanh, truyền hình, điện ảnh, và đặc biệt là điện toán ra đời, thú đọc thơ, bình thơ bị giảm sút nhiều. Ngay cả đối với những ai còn quan tâm tới thi ca, đại đa số cũng không muốn đi trên những con đường mòn cũ. Họ sáng tạo, họ sục sạo tìm cái mới, cái lạ, họ hối hả du nhập những trào lưu thi ca hiện đại, hậu hiện đại của thế giới. Thơ Tự Do, Thơ Không Vần, Thơ Xuôi, Thơ Tân Hình Thức, Thơ Cụ Thể, vân vân, ra đời. Thử trích một đoạn ngắn trong bài thơ “Thơ: cái gì lơ lửng” của Nguyễn Tôn Hiệt hiện sống tại Úc:
...Tôi không thể nào đi trực tiếp vào trang giấy.
Giữa tôi và trang giấy luôn luôn có sự lơ lửng.
Từ tôi đến trang giấy luôn luôn có một khoảng lơ lửng.
Phải chăng thơ chính là khoảng lơ lửng ấy?
Nếu thơ chính là cái lơ lửng ấy, tại sao tôi còn phải chép nó xuống trang giấy?
...
Và đoạn đầu trong bài thơ Những Hạt Cơ Hàn của Phan Thị Trọng Tuyến hiện sống ở Pháp:
Thứ hai, tôi thấy em đang leo ngược
dốc. Lưng nhỏ cong mềm vai oằn quang
gánh. Em hồn nhiên: ấy nghiệp dĩ mẹ
cha. Thúng thiện bên này, bên kia thúng
ác. Thiên hạ xếp hàng hò reo mắng
nhiếc. Trải khăn, ghế, nướng thịt cùng píc
níc. Ai gánh gánh, ai ăn ăn. Em
độ lượng gật gù. Tôi cúi mặt băn
khoăn. Quay lưng, mò tìm sandwich, gặm
Quả là những luồng gió mới khiến người đọc cảm thấy ngạc nhiên, thích thú. Những nhà thơ hôm nay, tuyệt đại đa số, đều không làm thơ theo thể lục bát và song thất lục bát. Đa số độc giả cũng không còn ưa chuộng hai thể thơ trên như trước kia. Có người làm thơ lục bát nhưng dùng kỹ thuật vắt dòng mong nó có dáng dấp của một loại thơ bây giờ. Chẳng hạn:
Trăm năm trong
Cõi
Người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo
Là ghét nhau
Thơ bây giờ cần tự do. Gạt bỏ những ràng buộc về thanh, vần, nhịp, điệu, luật bằng trắc, gạt bỏ những thủ pháp về tu từ, mỹ từ, và đi thật gần với lối nói bình dị hằng ngày, lối nói có thể dịch ra một ngoại ngữ mà không làm mất ý nghĩa của nguyên bản, nói cách khác nó hướng đến tính cách “toàn cầu hóa”[6]. Người làm thơ, do đó, tha hồ vẫy vùng ngọn bút. Nhưng làm một bài thơ tự do, thơ không vần, thơ cụ thể, thơ tân hình thức, thơ hậu hiện đại, hậu ngôn ngữ, vân vân, cho thực hay, đó không phải là chuyện dễ, nếu không muốn nói nó còn khó hơn làm một bài thơ theo thể cách cũ. Dưới đây là một bài thơ hay thuộc loại tân tân hình thức, tác giả là Mai Phương:
Đi Tìm Nơi Mặt Trời Mọc
Buổi sáng, trên xa lộ
dài và rộng, không còn
anh bên cạnh, những dòng
xe tấp nập, những con
đường đi về đâu mà
thênh thang nỗi nhớ. Phía
trước mặt, màu đỏ của
mặt trời đốt cháy nỗi
cô đơn rực nóng, những
đam mê một thời khao
khát, anh ở đâu? Có
hay một người đang tìm
anh, tìm lại hạnh phúc
của đời mình đã để
vụt bay. Xa lộ, đoàn
xe nối nhau bất tận,
những màu xe vượt qua
mặt, xe nào anh trong
đó, vùng nào anh đang
đi sao nỡ vội xa
nhau ...?
Hơn thế nữa, một bài thơ theo thể lục bát hoặc song thất lục bát, nếu hay, không phải tùy thuộc vào thể thơ. Thể thơ không cứu vãn một bài thơ dở. Thể thơ có khi làm thiệt hại cho bài thơ. Ngay cả 4 câu đầu tiên trong Chinh Phụ Ngâm dịch từ 3 câu của Đặng Trần Côn là những câu thơ khá hay, nhưng nếu được dịch thành văn xuôi, không chừng nghe hàm súc hơn, gợi ý hơn.
Vì phải khép vào vần điệu của thể song thất lục bát, 3 câu nguyên tác của Đặng Trần Côn với 16 chữ:
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thùy tạo nhân
được Đoàn Thị Điểm dịch ra thành 4 câu 28 chữ âm điệu du dương, réo rắt, hơi dài dòng, và có vài ba chữ thừa :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Dịch 3 câu nguyên tác ra văn xuôi sẽ không có cái trầm bổng của thể song thất lục bát, nhưng sẽ gọn hơn, chữ nghĩa mạnh dạn hơn, và sẽ giữ được ấn tượng sâu đậm hơn mà nguyên tác đã tạo nên: “thiên địa phong trần” (trời đất gío bụi) là nhân, đưa đến “hồng nhan đa truân” (má hồng gian truân) là quả. Hai vế sóng với nhau, đối với nhau về ý nghĩa, dù không đối với nhau về thanh âm. Chiến tranh không mang đau khổ cho chinh phu, cho chiến sỹ ngoài mặt trận, mà chủ yếu là cho người chinh phụ, người vợ ở nhà cô đơn, mong đợi.
8 chữ đầu tiên nêu lên chủ đề (theme) của toàn khúc ngâm, nó dùng để dẫn nhập đồng thời tóm lược cho toàn thể trên 400 câu của bài thơ dài. Do đó, nó đóng vai trò rất quan trọng. Câu thứ 3 tiếp theo chỉ là lời phụ họa.
Xin tạm dịch ra văn xuôi 3 câu chữ Hán:
Trời đất gió bụi
Má hồng gian truân
Cao xanh kia vì ai gây nên cớ sự
Nói là văn xuôi, 3 câu trên có thể được xem như là thơ, thơ không vần, chữ nghĩa giản dị mà súc tích.
Theo thời gian, trước những biến chuyển vô cùng lớn lao của cuộc sống hiện tại, của một thế giới thiên hình vạn trạng, một thế giới hung tàn, quay cuồng, điên đảo, liệu các thể thơ hoa mỹ, êm đềm, dịu dàng cũ, đặc biệt là thơ lục bát và song thất lục bát, có đủ khả năng mô tả, diễn đạt tâm thức của con người bây giờ? Hay nó đã lỗi thời, đang bị lạnh nhạt nếu không muốn nói bị rẻ rúng, và sẽ tàn lụi trong một tương lai không xa? Là vì, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, thơ muốn tồn tại phải trải qua nhiều trăn trở, thay đổi để có thể theo kịp thời đại, hay cũng có thể vượt thời đại. Và cứ thế, trên con đường dài bất tận không bao giờ đến được đích, thơ lại muốn sống còn, thì lại phải biến đổi hay ngay cả tự hủy như con phượng hoàng trong thần thoại tự đốt cháy ra tro để tái sinh thành con phượng hoàng mới lẫm liệt gấp bội. Hậu sinh khả uý!
Nhưng cũng có trường hợp ngược lại. Trong nền thi ca Tàu, các thời đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều không so sánh nổi với thời Thơ Đường. Ở phương Tây, nhà thơ mù Homer Cổ Hy Lạp vẫn là hình ảnh chói lọi khiến hậu thế cả mấy ngàn năm sau kính phục.
Và đây là một thực tế ở nước ta. Mặc những tấn công, đả kích các loại thơ cũ, hoặc những khằng định, chẳng hạn, rằng bây giờ “Thơ là trí tuệ. Không phải là rung động[7]”, khi nhìn lại những bài thơ xa xưa có giá trị như một số bài thơ thượng dẫn, người thưởng ngoạn vẫn thấy lòng rung động, không phải cái rung động bất chợt khi bắt gặp một kỷ niệm thân thương của thời còn bé dại. Đấy là rung động đích thực trước cái hay, cái đẹp đứng vững với thời gian.
Tóm lại, các loại thơ vần điệu cũ, nhất là thơ lục bát và song thất lục bát, vẫn có thể tồn tại, vẫn có thể tìm được chỗ đứng xứng đáng trong nền thi ca bây giờ nếu nó biết tự điều chỉnh, chuyển biến, cách tân, thay đổi. Chẳng hạn như thơ lục bát của Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, vân vân.
Ngự Thuyết
11/2016
_____________
[1] Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nặm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây chiếu bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước nước mà quên non
Dù như sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề
[2] Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện dăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạy này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường
Ngủ đi em mộng bình thường
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
Hồn em đã chím mấy mùa thương đau
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
[3] Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình ... với nhau
Ai làm cả gió đắt cau
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non
[4] Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc, bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ, dù sạch đừng vương gót này
Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất, hơi tàn thanh âm.
[5] Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền
Nước có chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ có thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên Sa
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà Lương chia rẽ dường này
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi
Quân trước đã gần ngoài Doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu Dương biết thiếp đoạn trường này chăng
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấy chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dau
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
[6] Một trong những nỗ lực của nhà thơ tân hình thức là làm những câu thơ thật đơn giản, thật gần với tiếng nói thông thường. Muốn thế phải loại bỏ tu từ, âm điệu, vần. Tu từ (loại tu từ vẫn được sử dụng, chứ không phải tân tu từ, “new rhetoric”) khiến cho ngôn ngữ bị uốn nắn, chải chuốt đến độ mất đi tính cách uyên nguyên của nó. Âm điệu du dương là để nghe, nhưng thơ tân hình thức là để đọc hơn là nghe, đọc trong “cô đơn, tĩnh lặng”. Âm điệu réo rắt có thể làm xao nhãng người đọc, khiến người đọc không lãnh hội đầy đủ ý tưởng của bài thơ.
[7] Mai Thảo có lần viết: Với những cõi thơ như Vũ Hoàng Chương phải vận dụng trí tuệ mới mong mở được lối vào. Thơ là trí tuệ. Không phải là rung động. Về điểm này, thấy được, nói được những điều xứng đáng về tiếng thơ Vũ Hoàng Chương, cũng phải từ một tâm hồn , một trí tuệ xuất chúng. (Chân dung 15 nhà văn nhà thơ Việt Nam của Mai Thảo, Văn Khoa xuất bản, Wesminster, California, 1985)