Benjamin Franklin cho rằng “Thời gian đã mất không bao giờ tìm lại được” nhưng những kỷ niệm của quá khứ xảy ra trong cuộc sống đã in sâu vào tâm thức được khơi dậy trong ngòi bút có thể tìm lại được thời gian đã mất. Và, sau tác phẩm Bên Lề Cuộc Chiến, tác giả Trạch Gầm mày mò trong ký ức để trang trải cho nhau qua Nhốt Vòng Nhớ Thương!
Nhà văn Pháp Marcel Proust với tác phẩm Đi Tìm Thời Gian Đã Mất (À La Recherche Du Temps Perdu) với cách tự truyện trong bối cảnh xã hội với 200 nhân vật, sinh hoạt trong vòng nửa thế kỷ mà theo lời nhận xét của nhà báo Thụy Khuê: “Tìm lại thời gian đã mất, theo phong cách Proust, là khai quật lại kho tàng thời gian… Nhờ nguồn chẩy của ký ức, nhà văn phục hồi dĩ vãng…”. Và lời kết: “Như thế khi vĩnh viễn ra đi Proust đã gửi lại ký ức và thời gian, hai bảo vật trân quý nhất của mình về cho sự sống”.
Tác phẩm Nhốt Vòng Nhớ Thương của Trạch Gầm dày 228 trang gồm năm mươi bài thơ và mẩu chuyện xen kẽ với nhau mà theo lời tác giả “Tất cả những mảnh vụn nầy đã xảy ra trong mười năm” được ghi lại rất tự nhiên, chân thật và sống động.
Trong những lần gặp gỡ, trò chuyện với nhau bên tách cà phê, Trạch Gầm đã kể từng mảnh vụn, anh em nghe rất thú vị nên gợi ý với anh cố gắng ghi lại vì tuổi già thường tìm về quá khứ như câu nói của Sacha Guitry “Quá khứ còn sống trong hiện tại” nếu ta biết khơi dậy.
Tương tự như những bài viết về Chuyện Người Tù Cải Tạo, Chuyện Người Vợ Tù Cải Tạo… nhưng ngoài sự nghiệt ngã, khốn khổ, cay nghiệt, Trạch Gầm ghi lại từng mẩu chuyện vui, buồn giữa các bạn tù với nhau. Lối sống, cách sống của kẻ chiến bại và sự ngây ngô, dốt nát của kẻ chiến thắng. Những nhân vật của Trạch Gâm đề cập có thật, bên nầy và bên kia chiến tuyến, một số đã ra người thiên cổ, một số còn hiện diện và lưu lạc nơi xứ người.
Bìa sách “Nhốt Vòng Nhớ Thương”.
Tác phẩm Nhốt Vòng Nhớ Thương không chỉ dành riêng cho tuổi già mà thế hệ con em, hậu duệ cảm nhận được “giai đoạn lịch sử” sang trang, nỗi bất hạnh của thế hệ đi trước trong thời kỳ chinh chiến khi buông súng!
Những mẩu chuyện được tác giả kể, không theo thứ tự thời gian mà rải rác qua các trại tù từ Nam ra Bắc.
Khi “Vác thân trình diện đi tù” nơi trường Võ Trường Toản ở Sài Gòn “Phòng số I, lớp đệ nhất ngày nào của tôi. Bàn ghế vẫn còn là bàn ghế xưa, thân quen, trong lòng tôi cảm nhận hình như các vật vô tri nầy, nhìn tôi có chút oán hờn. Từ cửa bước vào, dẫy bàn thứ tư nhìn lên bảng, tôi, ký ức hướng dẫn, đến ngồi ngay vị trí ngày xưa của mình, nhìn quanh đục mờ kỷ niệm…” (Chạy, Thấu Tim Gan).
Sau đó chuyển về căn cứ Long Giao. Lúc ở trại tù nầy, tác giả chứng kiến hình ảnh người bạn “Anh bị đau bụng, tay quân y sĩ khám, kết luận anh bị ruột thừa cấp tính, cần phải phẫu thuật ngay.
Anh được đặt nằm trên một cái bàn dài, tay chân được cột vào chân bàn. Căng một cái mùng phủ lên tránh ruồi bu. Bụng anh được dằn một cục nước đá lớn. Nước đá vừa tan hết, ca phẫu thuật được tiến hành. Anh liệm ngất không rõ vì đau hay vì hãi hùng” (Khai Bệnh). Giới trẻ bây giờ không thể nào hình dung nền y học nầy, có lẽ từ thời kỳ sơ khai và lạc hậu.
Trong thời gian ở trại tù Long Giao, cuộc đời binh nghiệp trong ngành Thám Báo, quen với sở trường lặn lội trong núi rừng nên cùng bạn bẻ rủ trốn trại. Cuộc vượt thoát bất thành “Tôi bị cùm trong một cái conex. Conex nằm giữa một hàng rào kẽm gai vây chung quanh. Bên trong conex sát đáy của chiều ngang có xếp hai thanh gỗ lớn mà chiều dài của hai thanh gỗ nầy vừa sít với chiều ngang của conex… Để khỏi nhúc nhích, một đầu của hai thanh gổ nầy được siết bằng một cái bù lon, đầu còn lại được giữ bằng một thanh thép xỏ ngược từ dưới lên trên, phần trên của thanh thép, có khoan một lỗ, móc vào ống khóa… Đêm đầu thọc chân vào cùm, với cái thân thể nửa chết nửa sống của tôi chẳng mang đến cho tôi một cảm giác nào”. Vệ binh coi tù còn dùng thanh sắt đập vào conex “Cách thức tra tấn uy hiếp tù thế nầy kể ra cũng là một đòn độc, trắng đêm chập chờn” (Dở Ẹt).
Mùa Đông năm 1976, tù nhân bị chuyển ra Bắc “Lúc mới ra Yên Bái, tôi bị nhốt ở trại 9 thuộc liên trại I của đoàn 77”. Rồi lần lượt trải qua các trại tù nơi núi rừng miền Bắc. Những mẩu chuyện xảy ra như hình ảnh thằng cà dẹo vì có tật ở chân, đi khập khiểng, sinh năm 1952 “Một gã ăn xin ở chợ Bà Chiểu, lượm được cái áo của một thiếu tá nào đó quăng xuống đường, tròng vào. Bị bắt và bị ghép bao nhiêu thứ tội. Nào là ngoan cố không trình diện, nào là không tuân lịnh đầu hàng, vẫn tiếc quân hàm, mưu đồ chống phá… thế là cái gã ăn xin đó được cùng ngồi tàu Sông Hồng ra Bắc với bọn mình”. “Nó đi trình diện ở tù thế cho một thằng bạn theo cách giang hồ của nó, ơn đền oán trả, chuyện ở tù mười ngày đối với nó chẳng là cơm áo gì. Nó không ngờ mà các tay đàn em nó, khuân vác, đứng bến ở Lâm Đồng cũng không ngờ nó ở tù biền biệt… 6 năm” (Học Được Cái Ngu).
Nói đến chốn lao tù là nói đến cái đói, đói triền miên. Đói hành hạ xác thân! “Trong tù có ai cái say rất đáng sợ. Nhất là say khoai mì (H34 loại mì kỹ nghệ, rất độc) trên tuôn dưới tè ra, không cách nào cưỡng được. Nhì là say mật, bụng cứng căng, móc họng cũng không ói, lạ lùng… Một thằng bạn trước khi xuôi tay vĩnh biệt anh em, chỉ mơ được một bữa khoai mì no bụng” (Quà Thăm Nuôi).
Thế mà hoàn cảnh xã hội bên ngoài khốn cùng trong thời điểm đó “Thời còn ở trại tù Tân Lập Vĩnh Phú, tôi đã từng chung đụng, tiếp xúc với đám tù hình sự nam… Những ngày tháng tù đối với chế độ nầy không khác gì một giấc ngủ trưa… còn được sướng cái là ngày ngày khỏi phải chạy kiếm hai bữa ăn. Mấy thằng đảng viên chúng ăn trộm cả nhà lầu, ô tô con thế mà vẫn phè phỡn, em chỉ ăn trộm mỗi một con heo đã mút tầm ngày tháng. Đó là câu nói của thằng Hùng Lợn, tù 7 năm chưa rục rịch, tù 7 năm mà chẳng thiết tha ngày về. Với nó trong tù cực như con chó nhưng so với đám thanh niên ngoài xã hội nó… còn sướng hơn cả trăm lần” ( m Mưu Lật Đổ Chính Quyền). Bữa ăn trong tù với bobo, cơm độn khoai, sắn… thiếu trước hụt sau, chỉ lót dạ cho qua ngày thế mà Hùng Lợn so sánh còn hơn bên ngoài thì người dân sống trong cảnh lầm than không kể xiết!
Xen lẫn trong cảnh khốn cùng ở các trại tù, có vài mẩu chuyện vui vui trong giữa anh em, giữa các chiến hữu với nhau đã một thời vào sinh ra tử. Cái đau của Trạch Gầm có lẽ là nỗi đau của nhiều người cùng sát cánh bên nhau trong cơn binh lửa “Chỉ mỗi một cái lệnh buông súng đầu hàng vô điều kiện, còn đau hơn cả trăm viên đạn thù ghim vào người, thế hệ của những lính trẻ, mà có đứa hơn chục năm gối đầu gió sương…” trong bài viết cuối cùng của tác phẩm nầy khi gập sách lại, cảm thấy ngầm ngùi.
Từ lúc “trình diện” nơi ngôi trường cũ, sang Long Giao, lưu lạc các trại tù ở núi rừng Bắc Việt rồi trở vào Z30 D Hàm Tân qua hai mươi lăm mẫu chuyện với “Lò cừ nung nấu sự đời. Bức tranh vân cẩu, vẽ người tang thương” (Nguyễn Gia Thiều).
Trạch Gầm đã ấn hành 3 tập thơ: Vụn Vặt (207), Ráng Chịu (209), Dấu Giày Chinh Chiến (2013). Anh coi thơ như là hơi thở, nguồn sống, là những dòng chia sẻ với đồng đội, bằng hữu và tha nhân. Vì vậy tác phẩm nầy được xem là tuyển tập thơ văn.
“… Anh đã mất đã quên niềm thương nhớ
Đường tương tư em mòn mỏi trăng thâu
Nghe nhớ thương dâng lên tùng góc phố
Cánh chim bằng gãy cánh bỏ trời cao…”
“… Gởi tặng em lại một ngày nghiệt ngã
Của bọn anh trong năm tháng điêu tàn…!”
“… Dăm thằng bạn trắng tay đời đau điếng
Gánh đau thương mòn cả lối ngậm ngùi
Tóc đã bạc, đời tha phương cũng bạc
Gặp lại nhau đong thương nhớ đầy vơi…”
Đọc những dòng thơ trên mới cảm nhận ý nghĩa nội dung của tựa đề Nhốt Vòng Nhớ Thương.
Vương Trùng Dương
Sửa bởi người viết 29/11/2016 lúc 09:37:32(UTC)
| Lý do: Chưa rõ