Khi đã bình tâm trở lại, chúng tôi gói hai bộ xương lại trong bao nhựa và đem trả lại vào hang, sau khi cầu xin vong hồn người chết phù hộ cho chúng tôi trốn trại bình an bằng hai cây nhang thuốc rê, rồi đi kiếm chỗ khác mà ngủ. Cuối cùng cũng có một góc an toàn và yên tĩnh tạm ngã lưng, nhưng cái đói lại cồn cào không ngủ yên được. Tôi nói P. ở đây để tui đi tìm ít lá rừng bỏ bụng. Lần theo bờ suối, tôi kiếm được lá giang, một loại dây leo hoang dã trong rừng có vị chua mà tôi thường hái để nấu canh chua khi đi phá rừng làm rẫy. Còn có cả rau đay rừng mọc hoang rất nhiều, nhưng làm sao nấu canh? Nếu ăn sống thì rất đắng và nhớt; thỉnh thoảng một vài cây ớt rừng, trái nhỏ xíu mà cay thấu trời xanh. Tôi cũng hái tất cả đem về chỗ trú ẩn. Hai thằng nhai lá giang, xong thử qua rau đay thì phải nhổ ra vì đắng còn hơn ký ninh, ớt thì nhấm một chút, cay chảy nước mắt và xốn xang bao tử. Dầu sao cũng có chút rau cỏ trong bao tử, hai thằng còn tếu lâm nói bò ăn cỏ mà mạnh như…bò, thì mình cũng sống mạnh với lá giang. Chúng tôi cũng tìm thấy rất nhiều trái rừng chín đỏ, coi hấp dẫn, khi cắn thử thấy vị ngọt, nhổ ra không dám ăn. Kinh nghiệm đi rừng cho biết trái chua thì ăn, trái ngọt thì đừng. Sau khi no nê toàn lá với lá, chúng tôi ráng dỗ giấc ngủ để lấy sức tối đi tiếp.
Ánh nắng chiều nhạt dần trên cành lá, trời vừa xẩm tối, tôi đánh thức P. dậy, hai đứa lại đi, nhắm hướng núi Bà Đen xa xa mà đi với hai cái bao tử lép kẹp vẫn đang sôi òng ọc, cố tránh các con đường mòn, biết là lâu nhưng an toàn hơn. Chúng tôi bước đi mà như lết; lết là phải vì giờ đây hai thằng gần như lả đi vì đói. Hai thân hình nặng nề dựa trên hai cây gậy loạng choạng dựa vào nhau mà đi. Đêm hôm đó, trăng mờ nhạt, vẫn miệt mài đi cho đến khi ra khỏi khu rừng rậm, chúng tôi đi vào một vạt cỏ tranh dài ngút ngàn, đúng ra là một rừng cỏ tranh cao hơn đầu người. Cỏ tranh là loại cỏ thân dài, mảnh mai mà dân mình dùng để lợp nhà, cạnh rất sắc có thể cắt đứt tay như bị dao lam cắt. Đặc biệt chồi non của nó lúc nhú lên khỏi mặt đất thì nhọn và cứng như đinh có thể đâm lủng dép; ai chân không đi vào đám cỏ tranh thì chỉ có khóc tiếng…lạ, không thể nào mà bước nổi. Nhờ mang giày bốt đờ sô của lính VNCH ngày xưa nên hai thằng không hề hấn gì mà vẫn cứ hiên ngang“đường trường xa ta quyết đi cho tới cùng”.
Đi trong rừng tranh cao ngập đầu có cái khổ là tiếng cọ xát của cỏ tranh tạo nên tiếng xoàn xoạt không ngừng khiến mình không thể nghe tiếng động nào khác; cộng thêm ánh trăng bàng bạc tạo nên 1 cảnh tượng huyền ảo như trong truyện thần tiên. Chân bước mà tâm hồn như đang trong mơ và đầu óc mụ đi, không suy nghĩ gì cả. Chỉ biết là chúng tôi đi lâu lắm, lúc này chúng tôi không còn biết sợ hãi là gì.
Vừa đi vừa vẹt cỏ tranh ra hai bên, tôi chợt nghe, từ phía ngược lại, tiếng cỏ tranh khua động rất mạnh, tiếng cỏ tranh bị bứt đứt nghe bừng bực, và tiếng chân nện thình thịch đang hướng về phía mình, tôi tạt ngang qua phải và ngồi thụp xuống theo phản xạ, P. dạt qua trái và cũng ngồi xuống. Lúc đó tôi bắt đầu sợ, phen này bị bắt lại chắc sẽ bị hành hạ rồi bị bắn chết vất xác lên hàng rào kẽm gai. Nỗi sợ hãi tăng dần theo tiếng cỏ bị giật đứt. Nhưng tôi là “đầu đảng” mà lại hèn thế à? Ghé sát và thì thầm vào tai P.: - “Phải đánh lại dù chết cũng phải đánh nhé, chứ để bị bắt cũng chết thôi”. Hai khuôn mặt đằng đằng sát khí. Hai cặp mắt long lên sáng ngời. Hai đôi tay nắm chặt hai cây gậy “đả cẩu bổng”. Phen này quyết chiến quyết tử với kẻ thù cho dù phải giáp lá cà với bọn chúng. Cũng nên nhớ là cỏ tranh cao hơn đầu người nên chúng tôi không thể nhìn thấy gì ngoài cỏ tranh trước mặt và may ra có thể thấy và áp sát kẻ địch khi chúng đến thật gần mà thôi.
Quyết định rồi, chúng tôi cảm thấy yên tâm hơn, hơi thở nhẹ nhàng trở lại, sẵn sàng chờ đợi kẻ địch đang tiến về phía mình. Tiếng cỏ tranh xào xạc càng lớn hơn và tiếng cỏ bị đứt lại càng gấp rút hơn. Tim tôi đập thình thịch. Máu tôi chạy rần rật. Tay tôi mồ hôi lạnh. Tôi hình dung ra bọn chúng đang xiết vòng vây chung quanh và vòng người cứ nhỏ lại dần. Tôi tự hỏi bọn chúng có bao nhiêu đứa? Có súng không? Hay chỉ dao, rựa? Dù sao đi nữa thà chết tự do ngoài vòng rào trại tập trung còn hơn sống hắt hiu ở trong tù. Rồi cái gì tới phải tới, sát lắm rồi! Gần lắm rồi! Phải liều chết thôi! Nhưng sao hơi thở của chúng nghe phì phò to thế? Một cái đầu to lớn hiện ra mờ mờ dưới ánh trăng xen lẫn cỏ tranh, tôi chuẩn bị hét một tiếng thật lớn uy hiếp tinh thần đối thủ và quật một gậy vào đầu nó. Gậy vung lên, miệng và tay dừng lại kịp vì nhận ra không phải đầu người mà là đầu một con… bò, tiếng bừng bực là do cỏ bị đứt vì nó đang nhai. Nó cũng dừng lại một chút vì nhận ra tôi, một con… người, rồi chẳng buồn nhìn coi tôi là ai, nó rẽ qua một bên tiếp tục vừa đi vừa nhai cỏ, theo sau nó là 3 con bò khác với những tiếng cỏ tranh bị đứt còn to hơn trước. Tôi suýt hét lên một tiếng sung sướng vì không gặp phải con người, mà gặp một con bò, nhưng tôi đã kềm lại được vì nhớ ra đang trên đường chạy trốn, nên thôi. Hú hồn! Cảm giác như vừa qua cơn ác mộng, tim vẫn còn đập liên hồi, máu vẫn chạy rần rật trong huyết quản; chúng tôi vui mừng quá đỗi, bèn dạt qua một bên nhường đường cho các “ông lớn” đi qua. Các “ngài” vừa ngoảnh đi là hai thằng cũng lăn ra trên cỏ tranh mà cười ngất. Nếu có bò là có người đi rừng gần đây, họ thả bò đi rông để nó ăn cỏ rồi nó sẽ tự tìm đường về lại với chủ.
Lần này chúng tôi cảnh giác hơn lúc nãy, đi cách xa nhau hơn; khoảng 1 tiếng sau, chúng tôi lại đi vào một khu rừng thưa và thấy xa xa có những đốm lửa của dân đi rừng. Tiến lại gần hơn, có khoảng gần 10 chòi lá rải rác cách nhau khá xa, thấp thoáng ánh lửa bên trong, hình như họ đang nấu cơm chuẩn bị đi rừng, bên ngoài chòi là những chiếc xe bò đậu với hai càng đằng trước được chống bởi 1 thanh cây lớn hình chữ Y.
Quan sát hồi lâu, tôi thấy 1 căn chòi nhỏ nhất bên trái, không có xe bò bên ngoài và có vẻ như xa cách với mấy chòi kia. Chúng tôi đánh bạo bước vào, người đàn bà đang nướng mấy con cá khô, giật mình ngẩng lên nhìn chúng tôi và hỏi: -“ Mấy chú là ai, đi đâu vậy?” –“Thưa dì, tụi con đi kiếm hai con bò lạc mẩy bửa nay mà không thấy, rồi hết lương thực nên ghé đây xin chia 1 chút, tụi con xin gởi tiền lại”. Người đàn bà nói- “Để tui hỏi ba con hai coi ổng chịu hông nghen”. Nói rồi, bà ta bước vào sau bức vách bên trong và thì thầm gì đó. Một người đàn ông hơi gầy, da rám nắng, râu cằm thưa, dáng nhỏ nhắn, có vẻ hiền từ, bước ra chào chúng tôi rồi và mời chúng tôi ngồi chơi uống nước trà. “Mấy chú ở đâu tới, mất bò hả? Mất lâu nay rồi? Hổm rày kiếm ở đâu?”. “Dạ tụi con kiếm 2 bửa nay rồi mà không thấy”. Tôi tránh trả lời câu hỏi từ đâu tới, vì có biết từ đâu? Ông ta lấy cái điếu cày nhôm bằng vỏ đạn trái sáng ra, vê một bi nhét vào cái nõ tre, với tay lấy cái đóm tre mồi lửa hút, kéo môt hơi thật dài như để khói thuốc thấm sâu vào lá phổi rồi mới từ từ nhả khói ra. Khói thuốc hòa lẫn với mùi cơm chín tới và mùi cá khô nướng làm hai thằng tôi thèm chảy nước miếng mà phải ráng ngồi im.
Ông trao điếu cày và mời chúng tôi hút. Đợi hai thằng hết cơn phê thuốc, ông nhìn chúng tôi hồi lâu như quan sát, rồi mới chậm rãi nói: - “Giờ tui hỏi thiệt nghe, mà hai chú phải trả lời thiệt thì tui mói biết đường mà giúp hai chú. Hai hôm nay công an trại giam, tụi nó đi lùng sục tùm lum hết. Tình hình căng lắm, tui nói để hai chú tính”. Hai thằng nổi gai ốc, thằng này liếc thằng kia mà không biết nói gì. Để phá tan bầu không khí nặng nề, sau khi hai thằng nhìn nhau bằng ánh mắt đồng tình và cái đá chân nhẹ của P., tôi lên tiếng: - “Không giấu gì chú, tụi con là tù trốn trại, nhưng không phải là tù hình sự, xin chú thím giúp đở, tụi con mang ơn chú thím nhiều lắm”. “Tui nghe tiếng súng nổ rền sáng hôm kia, biết là tù trốn trại, rồi thấy công an túa đi khắp nơi hỏi tụi tui có thấy hai thằng trốn trại không? Giờ này tụi nó vẫn còn chốt mấy con đường mòn về phía Tây Ninh đó. Mấy chú ra là bị tóm liền. Tụi nó còn treo giải thưởng mười mấy ký gạo, muối với khô cho ai bắt được hai chú là được 30 ký gạo rồi”. Lần này chúng tôi còn run hơn lúc mới chạy trốn, mặt càng xanh như tàu lá chuối, hồi hộp nhìn ông già với đôi mắt van lơn, thầm nghĩ không biết ông bà này sẽ làm gì với mình. Leo lên lưng cọp rồi, muốn xuống cũng không xong.
“Thôi giờ vầy, hai chú đói lắm phải không? Ăn tạm miếng cơm cá khô đi rồi tui giúp cho. Tui nói là tui giữ lời, đừng sợ. Nói thiệt mấy chú, tui trước 75 là chi cục phó chi cuộc cảnh sát quốc gia gần Tây Ninh, sau 75 cải tạo hết mấy năm, giờ dìa làm rừng. Trời xui đất khiến mấy chú vô chòi tui chứ mấy chú mà vô mấy chòi kia là bị bắt rồi. Tụi nó gia đình cách mạng nòi mờ. Thôi yên tâm ăn cho no rồi bả dẫn mấy chú đi tắt ra khỏi rừng này về Dương Minh Châu, đón xe về Sài Gòn”. Không thể nào tả hết niềm vui và xúc động của hai đứa tôi, lần lượt chúng tôi nắm tay chú mà cặp mắt cay xè. Chúng tôi biết chắc rằng chúng tôi an toàn với sự giúp đỡ của chú thím. Trong khi chúng tôi ngấu nghiến ăn, chú kêu: - “ Hai ơi, con ra nấu thêm ít cơm, với mấy con khô, nắm lại cho hai chú đi đường nghen”. Một cô gái khoảng trên 20 bước ra vo gạo rồi trở vô đặt nồi lên bếp lửa, nướng thêm mấy con cá khô, gói lại trong 1 tàu lá thật to. Sau bữa cơm, chú mới đủng đỉnh: - “ Lúc hai chú bước vô tui đã biết mấy chú là ai rồi, khi nghe hai chú thưa gửi lể phép quá xá là tui biết ngay hai chú là người đàng hoàng, có ăn học vì dân ở đây không ai ăn nói như hai chú đâu”. Tôi hỏi: - “Thưa chú, chú tên là gì? Để mai này tụi con sẽ nhờ người nhà đến tạ ơn chú”. “Cứ kêu tui chú Năm là được rồi. Mà ơn với nghỉa gì mấy chú ơi, giúp người cũng như giúp mình, mai mốt con mình sẽ được người giúp lại. Đời có vay có trả, bọn người hung tàn bây giờ sẽ phải trả sau này, mấy chú nhớ điều này đi”. Cái triết lý đơn giản của chú Năm làm chúng tôi sững sờ vì nó quá thật và quá đơn giản mà không mấy ai trong bọn cầm quyền nhìn ra.
Sau khi cơm no, thuốc say, chú Năm còn trang bị cho chúng tôi 1 con rựa đi rừng cho nó “giống với người ta”, rồi dặn dò thím vài câu trước khi khởi hành. Tôi bắt tay chú lần nữa và nhét vào tay chú một số tiền. Chú nghiêm nghị nhìn tôi: - “Chú không giúp cháu vì tiền mà vì tình người với nhau. Cất đi, hai cháu sẽ cần nó trên đường đi”. Sau này tôi mới nghiệm ra sở dĩ chú không nói tên thiệt vì đề phòng lỡ chúng tôi bị bắt lại và bị tra tấn thì chúng tôi sẽ không biết tên ai mà khai. Thím Năm đi trước, chúng tôi theo sau, trời vẫn còn tối, ba người chúng tôi lẳng lặng đi mà không nói chuyện, mỗi người một tâm sự, một suy tư, một nỗi lo; thím Năm lại là người ít nói nên chúng tôi không biết phải bắt đầu ra sao. Dọc đường tôi gợi chuyện, thím năm nói: - “Hai chú yên chí, đường tắt này chỉ chúng tôi, dân đi rừng mới biết, công an, du kích không biết đâu”. Đi cho đến khoảng 10 giờ sáng, thím quay sang: - “Tới chỗ này an toàn rồi, hai chú cứ đi về hướng này khoảng hơn 1 tiếng sẽ gặp 1 ngôi làng kinh tế mới (tôi quên tên), rồi đi đò qua sông là huyện Dương Minh Châu, đón xe đạp ôm cỡ 5 cây số là tới chợ”. Chúng tôi lại năn nỉ thím cầm ít tiền để mua khô mắm đem đi rừng, thím nói chú Năm đã dặn không được lấy tiền của hai chú, nếu lấy thím sẽ bị rầy. P. vội quỳ xuống vái thím Năm, nó năn nỉ: - “Thím làm ơn nhận tiền dùm tụi con vì không biết bao giờ thím cháu mình mới gặp nhau lần nữa, xin thím cứ coi đây là tấm lòng của con cháu mà đừng nghĩ là trả ơn”. Tôi cũng đến và nắm lấy hai bàn tay gầy guộc chai cứng và thêm vào: -“Thím Năm à, đừng cho chú Năm biết, thím cứ coi tụi con như em hai trong nhà, nếu không lấy tiền, tụi con sẽ áy náy cả một đời không yên”. Cuối cùng thím đành phải cầm mà đôi mắt long lanh vì xúc động. Chúng tôi bịn rịn chia tay thím, đi một hồi, quay lại vẫn thấy thím đứng trông theo coi tụi tôi có đi đúng đường không. Những con người chân chất, thật thà, và tốt bụng như chú thím Năm không có nhiều trong 1 xã hội nghèo đói tả tơi của Việt Nam lúc bấy giờ. Tụi cháu xin ghi ơn này và nguyện sẽ không quên. Chú thím Năm ơi! Đến bây giờ cháu cũng chưa tìm lại được để biết chú thím là ai và để nói 1 lời cám ơn với chú thím.
Hai thằng tiếp tục đi thẳng phía trước, thấy một ngôi làng với những mái nhà tranh xơ xác, bụi đỏ bám khắp nơi, cảnh vật thật điêu tàn. Sải bước nhanh trên con đường đất đỏ giữa làng, chúng tôi quan sát thấy nhà nào nhà nấy có vẻ im lặng cam chịu như không còn sức sống, một vài em bé ở truồng, đen nhẻm, dơ dáy, bụng ỏng, mũi dãi lòng thòng đứng trước cửa nhà nhìn chúng tôi với 1 cặp mắt thờ ơ, đâu đây một vài tiếng phụ nữ kêu con về nhà ăn cơm. Ngôi làng toát lên cái nghèo, cái đói, cái cơ cực của những vùng kinh tế mới lúc bấy giờ. Hai thằng ước ao giờ này mà mua được một con gà, luộc lên chấm muối ớt ăn, thì sướng như lên thiên đàng. Nói thì dễ nhưng biết mua của ai và làm cách nào nấu nướng? Bao năm tháng bị giam ở trong tù và 16 ngày trại ở tập trung thêm 2 ngày đói khát trong rừng, mơ miếng thịt gà, nếu cắn được một miếng thì đúng là sướng hơn Tiêu Sơn tráng sĩ Phạm Thái lúc sa cơ, bầu rượu với miếng thịt “nai đồng quê” vừa đi vừa nhậu vừa hát “sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?”.
Chúng tôi vẫn đi trên con đường làng đầy bụi đất và nhìn quanh coi có thể mua gà ở đâu, nơi khốn khổ này. Tôi chợt dừng lại ở một ngôi nhà khác hẳn với tất cả những ngôi nhà chung quanh, đó là một ngôi nhà khang trang, to lớn, với những hàng cột to màu vàng đỏ, nền xi măng, mái lợp tôn mới tinh, phần vách phía trước đã hoàn thành chỉ còn hai bên vách là đang dở dang. Giữa một rừng nhà điêu tàn mà có một ngôi nhà khang trang như thế này, giống như trong một đám ăn mày mà có một người mặc quần áo sạch sẽ, áo bỏ trong thùng, tách biệt hẳn ra, rực rỡ như chim công trong đám gà. Chắc mình có thể mua một con gà từ nhà giàu này? Một chị khoảng 30 tuổi, rất đẹp, cái áo lụa trắng và quần sateng đen làm tăng vẻ sang trọng trên nước da trắng hồng của chị, một đứa bé gái bụ bẫm bên hông, một tay chị đang dọn đồ đạc, một tay ẵm con; thấy chị lúng túng tội nghiệp, chúng tôi đến gần cánh cổng cao to nói vọng vô chị ơi, chị có cần giúp đỡ không, tụi em phụ chị một tay. Tụi em đi kiếm bò đi lạc (bổn cũ soạn lại) mà chưa thấy, tính nhờ chị cho nấu nướng một chút, rồi tụi em sẽ giúp chị khiêng đồ vô trong nhà. Chị nhìn ra thấy hai thằng thanh niên khỏe mạnh, tướng tá dễ coi mà có vẻ hiền lành nên gật đầu liền và ra mở cổng cho chúng tôi vô.
Chị lấy nước mời chúng tôi và hỏi thăm mấy con bò; bài học thuộc lòng rồi, nên chúng tôi trả lời trôi chảy là chưa thấy nhưng nghe ai đó méc có bắt được mấy con bò ở vùng này nên chúng tôi đến đây. Chị nói chồng chị là trưởng công an xã này (Trời ạ! Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa?), để chiều về chị hỏi coi ảnh có biết vụ này không, ảnh sẽ giúp hai chú. Không bảo nhau mà hai thằng cùng kín đáo liếc nhau một cái rổi làm tỉnh như dân Ăng Lê. Chúng tôi bắt đầu hỏi chị phải khiêng cái gì trước, cái gì sau? Hai thằng bắt tay làm liền và “lao động rất hồ hởi, phấn khởi”, chẳng mấy chốc đâu vào đó. Trong lúc làm việc, hai thằng thì thầm với nhau sao cái số tụi mình chạy trời không khỏi … cộng sản? Tôi an ủi P. rằng có đọc đâu đó nói đôi khi mình ở trong lòng địch lại là nơi an toàn nhất, thôi thì tương kế tựu kế ráng đừng để lòi đuôi ra trong lúc ăn nói là được. Sau mấy tiếng đồng hồ căn nhà coi khá ngăn nắp, chị cho đứa con gái ngủ trên võng, rồi mời chúng tôi nên ở lại đêm nay, mai lên đường cũng không muộn. Chúng tôi mừng quá. Chị bắt 1 con gà trong chuồng ra làm lông và vừa xào nấu vừa nói chuyện: - “Chút nữa ông xã chị về, hai cưng nhậu với ổng luôn nghe. Ổng làm việc trên xã chuyện gì ổng cũng hay, hổng chừng ổng cũng biết mấy con bò lạc của mấy cưng”. Mấy chị em nói chuyện rất vui và hợp nên câu chuyện rôm rả không lúc nào ngừng. Chị hỏi: - “Mấy cưng ở đâu mà ăn nói có duyên và lịch sự quá”. Bỏ bu rồi, mãi lo tán dóc mà quên mình là dân chăn bò, mà chăn bò thì đâu biết nói năng lịch sự. May mà chị ấy cũng không hỏi tới, nếu không thì thật là rách việc.
Có tiếng người nói xôn xao ngoài cổng vọng vô, nhìn ra thấy ba người đàn ông bước vào, người đi giữa khoảng 35, 40 tuổi đeo cây K-54 bên hông, hai người trẻ hơn mang hai khẩu AK trên vai vừa đi vừa nói cười huyên thuyên. Thấy chúng tôi, người lớn tuổi đưa mắt nhìn về phía chị. “Hai chú này phụ em dọn nhà cả ngày hôm nay đó anh”. Bằng vài câu ngắn ngủi, chị giới thiệu chúng tôi với chồng và nói thêm vụ mất bò. Rồi chị mời hai anh thanh niên trẻ ở lại nhậu luôn cho vui. Thế là bàn tiệc 5 người cười nói huyên thuyên, ly cụng ly, rồi dzô dzô không ngừng, riêng tôi, số khổ vì là “đầu đảng” nên đâu dám uống, cần phải tỉnh táo để tính toán chứ, làm P. phải đỡ dùm; thỉnh thoảng tôi ra hiệu uống nhưng đừng say quá nghen cha nội. Nó hiểu ý nên cũng uống cầm chừng. Anh Ba, người chồng, hứa mai sẽ hỏi thăm bò dùm chúng tôi rồi hỏi nếu có tin thì làm sao liên lạc? Chúng tôi nói sẽ trở lại đây vào hai ngày sau. Đêm đó hai thằng ngủ một giấc ngủ ngon lành không còn giật mình nhưng thoảng đâu đây như còn nghe tiếng kẻng trại tập trung. Cho đến hơn 10 năm sau khi đã ở trên đất Mỹ rồi, nhiều lần trong cơn ác mộng, tôi choàng tỉnh dậy, tai vẫn còn nghe tiếng kẻng trại như còn đang ở quanh đây.
“Hai cưng ơi! Dậy đi hai cưng”. Giọng của chị nhẹ nhàng đánh thức chúng tôi. “Trời sắp hừng đông rồi. Dậy ăn sáng đi, chị đã gói cho hai cưng 1 bọc xôi nếp với chút thịt gà sẳn để hai cưng đem theo ăn dọc đường”. Người ta hay nói “họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai”, họa không đến 1 lần, nhưng phúc đến chỉ 1 lần. Vậy mà chúng tôi được phúc đến 2 lần. Xem ra trong cái rủi vẫn có cái may, trong nhiều người xấu, vẫn có người tốt, mà tốt đến 2 lần. Cám ơn chị thật nhiều, chị Ba ơi. Bây giờ tôi cũng không biết tên của chị vì tôi chưa từng 1 lần hỏi, mà cũng không cần hỏi, đơn giản vì tình của chị là giữa con người với con người không có lằn ranh cộng sản hay quốc gia.
Đi bộ hơn 1 tiếng, từ xa chúng tôi đã thấy bến đò đông đặc những người và người đang chen nhau xuống thuyền. Ngồi trên quán nước quan sát, thấy bờ bên này không có gì nguy hiểm nhưng bờ bên kia có một chốt chặn của công an áo vàng, họ lục soát tất cả bao bị, hành lý coi có đem hàng “quốc cấm” như ngũ cốc, thịt cá, hay hàng hóa gì không. Để ý thấy bọn chúng chỉ lo lục lọi và tịch thu nông phẩm như đậu xanh, bắp, v…v… mà không hỏi giấy tờ cá nhân nên chúng tôi an tâm xuống bến mua vé sang sông. Con đò là một chiếc ghe khá lớn, chở đầy người, xe đạp và đồ đạc lỉnh kỉnh và chủ đò chống chiếc ghe bằng con sào thật dài qua bên kia sông. Tuy đã chuẩn bị tinh thần, nhưng có tật thì giật mình, nhìn những tên công an áo vàng mà chúng tôi gọi bò vàng, với những cặp mắt láo liên nhìn người dân dò xét bằng những cặp mắt lạnh lùng đáng ghét, chúng tôi vẫn cứ bụng đánh lô tô. Khi đi ngang qua chúng, cả hai làm tỉnh nói chuyện, cười dỡn “tự nhiên như thanh liên Hà Lội”. Vừa lên bờ, mấy chiếc xe đạp ôm trờ tới chào mời, chúng tôi nhảy lên hai chiếc gần nhất đi về chợ huyện Dương Minh Châu. 15 phút sau chúng tôi đã chễm chệ trong 1 quán phở vừa ăn vừa hút thuốc “có cán” vừa bàn tính nên đón xe đò đi đâu. Sau khi dò hỏi bà chủ quán về các trạm công an kinh tế, giả vờ như chúng tôi chở đậu xanh đi bán. Bà ấy cho biết đây về bến xe Tây Ninh khoảng 20 cây số chừng 1 tiếng đồng hồ, không có trạm nào hết. Mừng quá, trả tiền xong, hai thằng nhảy lên 1 chiếc xe đò đang nổ máy đi Tây Ninh. Xuống bến xe, hai thằng ghé uống nước mía và dò hỏi tiếp. Bà chủ nói từ đây dìa Sài Gòn có 3 trạm kinh tế, khó lòng mà đi lọt nếu không đút lót và quen biết. Tôi hỏi tụi nó có xét giấy tùy thân không? Tụi nó chỉ lo đớp thôi chú ơi, chú đi tay không hổng sao đâu. Dù biết vậy, nhưng vẫn lo không biết tụi nó có cho công an trại ra mấy chốt kinh tế kiếm tù trốn trại không? Nó có gởi hình ảnh chúng tôi cho bọn kinh tế không? Nếu có thì sao? Hằng ngàn câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu. Mang thân tù vượt ngục, tâm trạng không lúc nào yên cho tới khi về đến Sài Gòn. Hai thằng quyết định tách ra không ngồi gần nhau tuy đi cùng 1 xe. Thằng ngồi trước, thằng ngồi sau, làm như không quen. Riêng tôi vẫn cầm con rựa và nếu cần thì bổn cũ “mất bò”soạn lại có thêm sửa chữa chút ít như tui đi rừng, giờ về nhà mua thêm mắm muối đem vô rẫy tiếp tục kiếm bò … lạc. (Không được nghĩ bậy nhé).
Qua chốt Trảng Bàng, bọn công an bắt mọi người xuống xe đi bộ qua trạm, hánh lý để lại trong xe để bọn chúng lên lục lọi. P. đi trước qua trạm an toàn, tôi lặng lẽ theo sau hàng người và lên xe sau cùng. Rồi sự lo sợ, hồi hộp cũng qua đi khi xe về đến bến Bà Quẹo. Lòng tôi rộn ràng mừng vui không tả xiết. Tôi dẫn thằng bạn đồng cam cộng khổ bước vào quán hủ tíu Lãng Du của vợ chồng anh chị bà con, quán đang đông khách, ông anh họ thấy tôi bước vào, đôi mắt anh tròn xoe, miệng há ra ngạc nhiên, xong anh định thần, tỉnh bơ hỏi: - “Hai tô lớn đặc biệt nhé?”. Không đợi trả lời, anh quay vào và một lát sau bưng ra 2 tô hủ tíu to nhất đang bốc khói và ghé tai nói nhỏ: - “Hai em ăn xong, về nhà anh mà nghỉ, chiều về anh em mình nói chuyện”. Ăn xong chúng tôi đón xích lô về nhà ông anh họ và làm lễ “tẩy trần” ở đó. P. từ giã tôi để về Khánh Hội nơi má nó có một sạp làm ăn buôn bán. Tôi dặn đi dặn lại là chớ bao giờ trở về nhà ở Củ Chi, vì bọn công an đang chờ; riêng tôi là kẻ không nhà, không hộ khẩu, sống vô gia cư, chết vô địa táng, nhưng tôi cũng sẽ không bao giờ về quê nơi ba má tôi đang sống.
Sáng hôm sau, đứng trước gương soi lại coi “dung nhan đó bây giờ ra sao?” Mặc cái quần đùi và cởi trần, tôi cố gắng nhìn thật kỹ coi còn con nào bám vào bộ xương cách trí của tôi hay không? Dơ cả hai cánh tay lên trời, tôi thấy có 1 cái chấm đen to hơn hạt đậu đen ở dưới nách trái. Hỡi ôi, dưới “đôi cánh thiên thần” 1 nàng ve no máu đang say giấc điệp bên bờ “lau sậy um tùm”. Đốt 1 điếu thuốc, dí vào nàng ve, nó rớt xuống đất nghe cái đụi, nói tếu thôi, nó vẫn không chịu rớt và không chịu nhả càng, mấy ngày đeo nhau như sam, nàng chắc ghiền và quen mùi của tôi chăng? Phải dùng đến cái nhíp kéo nàng ra và bật quẹt gas đốt cháy nghe cái sèo, nàng vỡ ra và khét lẹt mới thôi. Đồ ăn …bám!
Mấy tháng sau, má của P. đến tìm tôi với cặp mắt đỏ hoe, bà khóc nghẹn ngào: - “Con ơi thằng P. bị bắt lại rồi, tụi nó đánh thằng nhỏ gần chết, đi không nổi còn bị còng hai chân và tống vào biệt giam ở khám lớn”. Nghe tiếng nấc, lòng tôi xót xa cho thằng bạn không may, chỉ biết nắm tay bà mà không nói được lời nào. Trước khi về, bà dặn tôi đừng bao giờ về thăm ba má con vì thằng P. nó nhớ bác, nó về Củ Chi thăm, hàng xóm báo công an địa phương đến còng tay và dẫn nó đi ngay đêm hôm đó.
Hơn 1 năm sau, tôi may mắn thoát ra khỏi thiên đàng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nơi “đáng sống thứ 2 trên thế giới” theo tin tức tự sướng của VN, chỉ sau Thụy Sĩ, tôi lại còn “cưỡng ép” được một số người khác trốn đi nước ngoài: đây là tội danh chính quyền cộng sản ghép cho người tổ chức vượt biên, đến cái xứ tư bản giãy hoài mà không chết, nơi mà mọi người yêu tự do và cả những tên cộng sản gộc hằng mong ước gởi con đến du học. Nhiều năm sau, trong giấc ngủ trên xứ người, tôi vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây tiếng kẻng báo giờ của trại tập trung.
Nguyễn Văn Tới
Tham khảo: Google Earth
Tống Lê Chân – Tây Ninh: 49.7 Km
Dương Minh Châu – Tây Ninh 17.2 Km.
Tây Ninh – SG: 95.89 Km
Từ Tống Lê Chân đi về phía Bắc là tỉnh Bình Long, phía Nam là Bình Dương, Đông Nam là Đồng Xoài, Tây Nam là về Tây Ninh (phải đi ngang hồ Dầu Tiếng và huyện Dương Minh Châu.)