Năm 2015, Milana đã ba mươi tuổi, đang làm việc trong một công ty Network ở California. Mẹ nàng tỏ ra lo lắng tại sao tuổi này mà không chịu lấy chồng, mà cũng ít thấy có bạn trai; bà e rằng phụ nữ sau ba mươi lăm tuổi khó sanh nở. Nhưng nàng có lý do riêng không nói được với ai.
Vào tối ngày 25 tháng 4 năm 2015, khi xem truyền hình tin tức về trận động đất 8.Mw đang xảy ra tại thị trấn Gorka cách tám mươi cây số về phía Bắc thủ đô Kathmandu của Nepal, nàng rùng mình kinh sợ, nước mắt chảy ròng-ròng nhìn cảnh nhà cửa sụp đổ, người chết vùi thây trong đống gạch đá lổn-nhổn, trẻ em tán lạc mẹ cha, loi-ngoi bò lê-lết trên đường phố. Mặc dù trung tâm động đất ở xa nhưng thủ đô cũng bị chấn động; đền đài, dinh thự, chùa tháp ngả nghiêng. Những lời kêu gọi cứu trợ từ khắp nơi trên thế giới khiến nàng quyết định xin nghỉ việc một thời gian, tình nguyện ghi tên vào Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế.
Mặc dù mẹ nàng lo sợ, cản không muốn nàng đi, nhưng bà biết “cái con bé ương ngạnh, càng cấm cản nó càng làm tới, năm nay ba mươi tuổi đầu chẳng chịu lo lập gia đình, bạn trai nào mon-men đến tính chuyện đều bị nó cho là không hợp với nó”.
Bà biết cái con bé hồi trung học giỏi toán lý, luôn luôn điểm A+, không bạn trai nào bằng nó được, nó kiêu ngạo lắm, đến độ những bạn gái cũng ghét nó. Vào độ tuổi mười bảy mười tám, đứa học sinh Mỹ nào chả cặp bồ, thậm chí phải có kinh nghiệm tình dục mới được cho là bình thường. Còn cái con Milana này nó như tượng đá. Mặc dù bà còn cái thành kiến Việt Nam “chữ trinh đáng giá ngàn vàng, món quà trong trắng dâng chàng tân hôn”, nhưng bà vẫn e ngại nó bị bệnh thời đại, bệnh lãnh cảm đối với người khác giới tính. Bà cảm thấy sợ hãi nếu một ngày nào nó cặp bồ với một cô nào! Xã hội sẽ cho nó nhãn hiệu L.
Milana biết hết những ý nghĩ của mẹ cũng như những xi-xào của họ hàng, bạn bè. Nhưng nàng tự biết, mình là một thiếu nữ đẹp nhiều chàng mê, vẫn có những đòi hỏi tình dục nam nữ bình thường, nhưng nàng cảm thấy “ghê-ghê” nếu một chàng trai không hợp ý nàng đụng đến thân thể mình.
Người đàn ông đầu tiên mà nàng thấy không hợp với nàng, chính là ông anh cả của nàng, Tòng, hơn nàng hai tuổi. Tòng tốt nghiệp đại học ngành kinh doanh, mở văn phòng địa ốc kiếm nhiều tiền, lúc nào cũng diện kẻng, vênh váo; về Việt Nam lấy cô vợ trẻ mới đậu tú tài, tên Trang kém nàng hai tuổi. Tòng tỏ ra mãn nguyện với đời sống, nhưng anh ta đâu biết Trang đã tâm sự với nàng : “Mình kém tuổi Milana, nhưng vì là chị dâu, nên phải xưng là chị với cô. Nhà mình không khá nên mong đi Mỹ học ngành gì kiếm ra tiền gởi về giúp gia đình; nào ngờ hai năm sinh hai cháu, tối tăm mặt mũi suốt ngày, tiền anh Tòng đưa chỉ đủ trang trải tối thiểu vật chất hàng tháng, lấy đâu dư giả cho chính bản thân huống hồ cho cha mẹ; nhiều khi muốn mua riêng một vài thứ mà không đủ tiền;mình buồn lắm, nhiều đêm khóc thầm”.
Cơn giận trong Milana bùng lên ; “Chị yên tâm, em sẽ cho anh ấy một trận, đồ ích kỷ”. Trang chưa kịp ngăn cản thì Milana đã bấm phone gọi Tòng ; “Em không cần anh phân bua, anh là một người ích kỷ, chỉ nghĩ đến hưởng thụ bản thân, anh nghĩ anh lấy vợ để làm gì ? để làm ô-sin cho anh hả ? Chị Trang cần được đi học, từ tháng sau, anh phải mướn người về chăm sóc hai đứa trẻ; em sẽ đich thân dẫn chị Trang đi học”.
Nói là làm, Milana lo ngay hồ sơ học đại học cộng đồng cho Trang. Mẹ nói thằng Tòng nó sợ con Milana lắm, không dám hó hé. Milana dằn mặt Tòng :
“Anh mà đối xử không tốt với chị Trang, em sẽ giúp chị ấy làm đơn ly dị anh luôn, chị ấy dư sức lấy một người khá hơn anh”.
Sau năm năm Trang đậu bằng kỹ sư điện toán, làm việc trong công ty của Milana. Trang nói : “ Chị hàm ơn Milana không biết lấy gì trả; anh Tòng cũng biết điều nhiều lắm, có lần còn nói với chị là bây giờ anh ấy mới biết mình xử sự sai với chị “.
Người đàn ông thứ hai mà Milana cũng không hợp ý, là một chuyên viên kỹ thuật số, tên Bennett, da trắng gốc Anh. Bennett có cái kiêu ngạo ngầm của một kẻ học giỏi, lương bổng cao. Khi Milana học ban cao học vật lý, thường cùng Bennett đàm luận nhiều vấn đề. Bennett tự hào về gia tộc Anh mấy trăm năm, con giòng cháu giống, về nền văn minh kỹ thuật siêu đẳng của người da trắng . Đối với hắn, kỹ thuật cao chính là văn minh đích thực của loài người. Có lần hắn quả quyết với nàng, dân tộc nào có kỹ thuật cao sẽ bách chiến bách thắng. Mặc dù hắn giỏi trong ngành của hắn nhưng những lãnh vực khác của đời sống, hắn ngơ-ngơ nhiều khi ngờ-nghệch. Nàng cho là hắn bất bình thường, tâm lý bất quân bình.
Còn một anh chàng tên Darius, học ngành sử, nàng gặp trong thư viện, cũng hay tìm cơ hội gặp nàng, tỏ ra thích nàng. Darius, Mỹ da trắng gốc Đức, tính tình trầm lặng điềm đạm có kiến thức rộng về sử. Có lần hắn hỏi nàng “Bạn là người Việt Nam, bạn có biết nhiều về lịch sử nước bạn không ?”. Nàng bối rối, cảm thấy hơi đỏ mặt, quả thật nàng gần như mù tịt, đành phải thú thật : “Bố mẹ tôi là người Việt , nhưng tôi sanh ra ở Mỹ, theo học ngành toán lý nên ít để ý đến khoa học nhân văn”.
Từ đó nàng để nhiều thì giờ đọc sử Việt, tự nhủ một ngày nào đó sẽ tranh luận với Darius. Nhờ vậy nàng dần dần hiểu rõ hơn về nguyên nhân khiến bố mẹ mình phải vượt biển tìm cái sống trong cái chết. So sánh đối chiếu, nàng thấy suy nghĩ của anh chàng Bennett sai lệch nhiều; nếu kỹ thuật cao là bách chiến bách thắng thì sao nước Mỹ lại thua trận, rút lui trong rối loạn ? Nàng nghĩ sẽ hỏi Darius xem anh ta nghĩ sao về vấn đề này.
Darius miệt mài trong thư viện vì đang viết một tiểu luận gì đó. Nàng tìm gặp và mời anh ta vào quán nước nói chuyện. Nàng nói : “Tôi đã bỏ nửa năm để đọc lại lịch sử nước tôi nói riêng và lịch sử thế giới nói chung. Tất nhiên sao có kiến thức bằng bạn được, nhưng tôi muốn biết bạn nghĩ sao về vấn đề này”.
Sau này nàng nhớ lại buổi nói chuyện hôm đó, nàng thấy Darius có vẻ lúng túng, kết án những thành phần phản chiến hồi những năm 1960 tiếp tay cho phe cộng sản thắng thế. Nàng nghĩ, ngay thành phần trí thức Mỹ cũng mù mờ chối quanh thì nói chi quần chúng Mỹ. Từ đó nàng cũng không tìm Darius nữa.
Không chỉ Darius hỏi nàng về lịch sử Việt. Có những bạn người Nhật, Đại Hàn cũng có lần hỏi nàng : “Tôi là người Đại Hàn, bạn là người Việt Nam, hai dân tộc chúng ta có nhiều điểm giống nhau ở chỗ trong lịch sử thường bị Hán tộc Trung Hoa xâm lăng đô hộ,nhưng bạn còn có những phụ nữ giỏi giang như Hai Bà Trưng, Bà Triệu lãnh đạo chống Tàu; lúc nào bạn tiện thì kể cho chúng tôi nghe chuyện các Bà nhá”. Milana đã từng cảm thấy mắc cỡ vì nàng say mê môn toán lý ít để ý đến sử học. Nàng thấy rõ người bạn Đại Hàn hãnh diện về lịch sử dân tộc, còn nàng hầu như không có gốc rễ gì, sinh ra ở Mỹ, học toàn tiếng Mỹ, nhưng chẳng phải người Mỹ.
Hồi nhỏ đôi khi nghe mẹ kể về quê ngoại Vĩnh Long nằm giữa giòng Tiền Giang và Hậu Giang của sông Cửu Long, về cù lao An Bình êm đềm thơ mộng, nơi bà sinh ra đời; nàng nghe qua rồi quên luôn vì bài vở học hành tràn ngập. Khi đã đi làm thảnh thơi, nhớ lại lời mẹ kể về quê ngoại, tự nhiên nàng ao ước về thăm cù lao An Bình.
Lại một chàng trai khác hình như theo đuổi nàng. Hắn ta tên Liệt, du học sinh Việt Nam ban toán. Hắn có vẻ săn đón nàng. Có lần sau giờ học, hắn mời nàng đi ăn trưa trong một tiệm Mỹ sang trọng. Hắn nói : “Để cho tiện, xin mời bạn lên xe của tôi”. Xe của hắn hiệu BMW mới toanh; nàng nghĩ xe mình hiệu Toyota cà- cộ, đang đi học lấy tiền đâu tậu xe xịn; anh chàng du học sinh này hẳn là con nhà giàu bên Việt Nam. Khi trả biên lai, thay vì thẻ tín dụng, hắn lôi một xấp tiền mặt giấy một trăm mới tinh, gọi cô phục vụ một cách thiếu lịch sự. Sau buổi ăn trưa hôm ấy, nàng thấy rõ hắn muốn khoe của. Tự nhiên nàng cảm thấy chán, không muốn gặp lại hắn nữa; nàng nghĩ chắc xưa kia nhà hắn nghèo khổ, bây giờ làm ăn phất lên được muốn đè bẹp cái mặc cảm thấp kém bằng cách khoe của ? Hắn muốn tán tỉnh nàng bằng cái cách khiếm nhã ấy à? Nàng điên tiết, nghĩ sẽ cho hắn một bài học. Hắn đâu biết ông bà ngoại nàng trước 75 từng là nhà bán vật liệu kiến trúc nổi tiếng ở Sài Gòn, nhà lầu ba tầng chứa đồ không hết. Hơn nữa, hình như hắn không có những tư tưởng của riêng mình; về bất cứ đề tài nào, hắn suy nghĩ nói năng theo một khuôn sáo có sẵn, nghe phát chán.
Một lần sau bữa cơm chiều, mẹ nàng nói : “Con đã xong đại học, có việc làm rồi, cũng nên tìm bạn trai tính chuyện hôn nhân đi chứ”. Nàng cười thầm, bà cụ lại dò hỏi xem mình có mang nhãn hiệu L không? “ Mẹ yên tâm, con nhiều bạn trai lắm, Mỹ cũng có, Việt cũng có , vì con chưa muốn đấy thôi”. Mắt mẹ nàng như sáng lên : “Có bạn trai Việt hả, hôm nào dẫn anh ấy lại chơi”. Nàng biết tỏng, bà cụ khoái rể Việt hơn. Vừa nghĩ đến Liệt là nàng lại muốn nổi nóng, nhưng nhân thấy mẹ vui , nàng nói : “ Anh ta là du học sinh Viêt Nam, đây anh ta có đưa danh thiếp tiệm buôn của nhà anh ta ở Sài Gòn”.
Nàng lục trong ví tấm danh thiếp của Liệt đưa cho mẹ. Bà cầm đọc, bỗng nàng thấy tay bà run lên, mặt bà tái đi, bà buông tấm danh thiếp rơi xuống, hai tay ôm ngực như nghẹt thở. Milana hoảng sợ vuốt lưng mẹ : “Ô mẹ sao thế, để con gọi 911 ngay”, Bà xua tay : “ Không sao con à, mẹ chí xúc động một tí thôi, cho mẹ ly nước ấm”.
Bà nói, trước đây mẹ mới chỉ kể cho con biết ông bà ngoại ngày xưa lao động cần cù, làm ăn buôn bán lương thiện, không cướp giật của ai mà trở nên giàu có, xây căn nhà ba tầng; nhưng chưa kể cho con năm 1975 người cộng sản không lao động gì mà lại vu cáo ông bà bóc lột của người khác, họ cướp nhà, đuổi ông bà xuống góc vườn, chờ xúc đi vùng kinh tế mới ở bờ rừng chân núi không tiện nghi gì. Ông bà uất ức hai năm sau theo nhau qua đời. May là bà ngoại có kinh nghiệm năm 1954, dành giụm một số vàng, giục mẹ tìm đường vượt biển, tìm xứ tự do văn minh mà sống.
Qua Mỹ, mẹ vẫn theo dõi tin nhà; căn nhà đó bây giờ có chủ mới là một cán bộ cao cấp; vừa nhìn địa chỉ trên tấm thiếp là mẹ xây xẩm mặt mày; chính là nhà khi xưa của ông bà ngoại đó. May mà con cho mẹ biết, nếu không thì....
Milana sững-sờ, may mà hắn ta xử sự một cách thô lậu, chứ nếu hắn ta lịch sự tế nhị thì nàng mắc lừa rồi.
Bao năm nay nàng hiểu sai về mẹ, bây giờ mới vỡ lẽ. Hóa ra trong tâm khảm bà u-uẩn một nỗi uất-ức; căn nhà của ông bà ngoại trị giá ít nhất cũng hai triệu đô-la, chưa kể bao nhiêu vật liệu mới tinh, đáng lẽ thuộc về bà. Mấy lượng vàng bà ngoại cho đã chi vào ghe thuyền hết; qua Mỹ gần như tay trắng, mua được căn “townhouse” này cũng may-mắn lắm rồi. Hơn nữa, bà đang học ngành dược khoa thì nửa đường đứt gánh, qua Mỹ phải kiếm sống bằng nghề may vá.
Từ những năm bảy, tám tuổi nàng đã quan sát liên hệ giữa bố mẹ. Nàng luôn nghe mẹ than thở, trách móc, oán hờn đối với bố; một lỗi nhỏ của bố cũng làm mẹ nổi giận, tuồng như bố trách nhiệm về mọi đau khổ đời mẹ. Sau mỗi lần đi dự tiệc hội ái hữu này nọ, mẹ lại than thở “Nhà con X, con Y, con Z gần biển to đẹp, còn nhà mình như cái hộp diêm”.
Nàng thấy thương bố vô cùng; ông chỉ im lặng nhẫn nhịn. Bố và mẹ học chung thời trung học; khi thi xong tú tài, mẹ học dược, bố nhập ngũ sau biến cố Mậu Thân, 75 đeo lon đại úy, phải đi tù cải tạo cộng sản; khoảng 1980 hai người tình cờ gặp nhau tại Mỹ và đi đến hôn nhân, Ông làm hai “job”, quần quật suốt ngày, chưa kể phải đưa đón hai con đi học. Năm nàng mười tuổi, ông muốn cho hai con đi học võ; ông nói học võ để phòng thân thôi, không phải để đánh người ta là phạm pháp; vào trung học dễ bị bắt nạt, các con phải biết tự vệ.
Anh Tòng nhất định không học võ, chỉ thích học nhảy đầm. Còn nàng thì hăng hái học nhu đạo, vài năm lên được đẳng cấp cao, không bạn nào biết. Mẹ nói, con Milana tính như đàn ông. Bố chăm sóc nàng cẩn thận, chở đi học võ ban đêm không hề than thở. Khi ông mất vì bệnh tim, Milana suy sụp tinh thần, ngày đêm thổn thức nhớ bố. Trong cơn đau khổ, nàng nghĩ ông chết sớm vì nỗi buồn không kiếm được nhiều tiền để mua nhà lớn làm hài lòng mẹ. Nàng âm thầm trách mẹ, nghĩ mẹ là nguyên nhân khiến ông buồn chết sớm. Dần dần nàng xa lánh mẹ, xin đi học xa, thuê phòng tự túc. Nàng nhờ chị Trang chăm sóc mẹ, bà không thể nào hiểu được tâm tình con trẻ.
Những đêm thao thức trong phòng trọ một mình, nàng tự hỏi nguyên nhân gì khiến nàng ngại lập gia đình. Có lẽ mẹ nàng và chị dâu là nguyên nhân trực tiếp. Nếu nàng không can thiệp thì Trang sẽ mãi mãi là một thứ ô-sin cho Tòng. Còn mẹ nàng dằn vặt bố nàng khiến ông nhẫn nhịn quá sức không chịu nổi. Nàng nghĩ nếu lấy chồng, mình sẽ có rơi vào vết xe của mẹ không? Nàng tự thấy tính cách mình không thể như chị Trang, không thể như mẹ. Nhưng sau này, khi biết chuyện ông bà ngoại uất ức mà chết vì bị cướp mất nhà thì nàng hiểu và phân tích rõ tâm lý của mẹ.
Vì nỗi uất ức trong tâm khảm của bà không giải tỏa được nên bố nàng là nạn nhân, một thứ thùng rác cho bà trút cơn hận.
Có gì bí mật trong đời sống vợ chồng khiến nhiều cặp tan vỡ nhanh chóng. Có lẽ hai bên mong đợi nhau quá nhiều so với thực tế nên dễ thất vọng. Thường thì một cô gái, nếu trong ấu thời coi bố là thần tượng, khi lấy chồng sẽ phóng chiếu một cách vô thức hình ảnh bố vào người chồng; nếu anh chồng không đáp ứng đủ những tiêu chuẩn, người vợ dễ sinh lòng bất mãn, làm tan biến tình yêu ban đầu; cái tình yêu mà theo nàng nên gọi là tình mê thì đúng hơn; mê thì mau tàn.
Nàng không muốn dính vào những bi kịch nhỏ-nhặt vô ích ấy. Không lệ thuộc vào ai thì đời sống nhẹ-nhàng, thong-dong.
Có lần, nhớ bố quá, buồn rũ rượi, thì có đám bạn trung học cũ cả trai lẫn gái rủ đi hộp đêm ; nàng không tự chế, uống nhiều; bỗng có một đám thanh niên khác say ngất- ngưởng tự nhiên đến gây chuyện; nhà hàng ra can thiệp không được, họ còn có thái độ sàm sỡ với phái nữ. Men rượu đang bừng-bừng, nàng tung nhu đạo quật ngã từng thằng, cũng may cảnh sát đến kịp. Nhà hàng làm chứng, nên bọn nàng thong thả ra về. Từ đó nàng vang danh với biệt danh “Milana judo”. Có cô bạn nói : “Lão nào mà còn dám lấy con Milana”.
Nàng quyết định âm thầm nộp đơn thi làm phi công, mong hưởng những giờ phút gay cấn trên bầu trời bao la. Nàng luyện nhu đạo hàng ngày giữ cho thể lực ổn định. Cám ơn bố đã cho con học võ để có lòng tự tin trước những nghịch cảnh.
Khám tổng quát tâm lực và thể lực đều tốt, nhưng một sự cố xảy ra. Bác sĩ cho biết Test về đường hô hấp ở một cao độ có vấn đề, dường như nàng thở khó khi lên cao.
Nàng về leo dốc cao dần, quyết tâm luyện tập tự chữa bệnh. Nàng nghĩ ta sẽ qua Nepal gần Hy Mã Lạp Sơn, sống ở độ cao mấy ngàn mét để tập luyện cho buồng phổi quen với không khí trên cao. Nhân vụ động đất đang diễn ra tại đây, nàng quyết định kết hợp hai việc. Khoảng đầu tháng sáu năm 2015 nàng đã theo đoàn HTT bay qua thủ đô Kathmandu. Nàng được phân công làm trong ban lập bản đồ cứu trợ bằng kỹ thuật số gọi là “crisis mapping”, nhưng tùy nhu cầu hiện trường, phải đi phát quần áo, thuốc men, thực phẩm, coi sóc trẻ em lạc cha mẹ...
***
Nàng tỉnh giấc, đảo mắt nhìn chung quanh, trời có lẽ gần trưa; không phải một căn phòng hay một căn nhà, mà là một kiểu nhà tiền chế tạm dựng lên; có chừng ba chục giường đơn xếp thành ba hàng; mỗi giường có một người nằm. A ! hoá ra là một bệnh xá dã chiến. Nàng ngóc đầu tính ngồi dậy; bỗng có bàn tay đỡ lấy vai nàng, một giọng nữ với tiếng Anh khá trôi chảy : “Xin cô vui lòng từ từ ngồi dậy”.
Một phụ nữ gầy-guộc, gương mặt xạm đen, một tay ôm vai nàng, tay kia đỡ sống lưng nâng nàng ngồi trên giường. Nàng ngạc nhiên hỏi : “ Có phải tôi bị thương không” ? “ Không phải, cô đang trong đoàn đi cứu trợ nạn nhân động đất, thì bỗng té ngất xỉu, sốt cao mê man ba ngày rồi, may quá cô đã tỉnh, để em hâm chén cháo nóng cho cô nhé”.
Người phụ nữ chắc khoảng ba mươi, trạc tuổi nàng, mặc đồng phục y tá, đi xuống cuối căn nhà nơi để máy microwave và chén bát. Những bệnh nhân khác, người thì ho, người thì rên. Nàng mắc cỡ, tự trách cái thói kiêu ngạo của mình, dương dương tự đắc đi giúp người ta, mà bây giờ hóa ra người ta lại phải giúp mình.
Nàng nhớ lại khi theo đoàn cứu trợ nạn nhân trên một sườn núi vừa bị một trận tuyết lở cuốn phăng nhà cửa, nàng quên bẵng mình bị bệnh khó thở trên độ cao, thành ra ngất xỉu bất ngờ. Đã thất bại trong ý định làm phi công, bây giờ lại thất bại trong việc đi cứu trợ, không xấu hổ với chính mình sao được ?
Cô y tá người Nepal bưng chén cháo lại, cầm muỗng tính múc cháo cho nàng. Cử chỉ của cô ta dịu dàng làm sao, nàng xúc động đỡ lấy chén cháo, nói : “Cô tên gì? Cám ơn cô đã chăm sóc tôi mấy ngày nay, đây là bệnh xá khẩn cấp phải không? “Em tên Trisha. Phải, bệnh xá cũ bị sụp đổ trong kỳ động đất đầu tiên, bao nhiêu dụng cụ y tế bể nát hết, giường bệnh cũng hư hại” “Chính phủ lập ra bệnh xá dã chiến này phải không?” “Không phải chính phủ, mà một ông Mỹ giàu bỏ tiền giúp dựng nên, may là cũng tạm cho mấy chục bệnh nhân, nhưng còn nhiều nạn nhân khác lắm cô ạ. Em nghe nói ông Mỹ sẽ giúp chính phủ xây lại bệnh xá này”.
Nàng nghĩ, người Mỹ hào phóng. Nàng lại cảm thấy mình bất lực, bao nhiêu kiến thức khoa học lý thuyết của nàng chẳng giúp gì được trong việc này. Tiền, phải có tiền mới mua thêm thuốc, thêm giường, xây lại bệnh xá, tuyển thêm y tá... Trisha nói : “Em không phải y tá, chỉ là y công thôi, những y tá giỏi phải đi các bệnh viện lớn có bệnh nhân nặng. Người ta cho em ở đây chăm sóc bệnh nhẹ, nhưng ngay cả bệnh thông thường cũng thiếu thuốc. Cô bị sốt mấy hôm mà cũng không có đủ liều Tylenol cho cô đấy; ông Mỹ phải bay sang New Delhi mua sắp về tới”.
Nàng thấy lòng bồi-hồi xao-xuyến thầm nghĩ sao có người tận tụy như thế. Ăn chén cháo nóng, nàng cảm thấy khỏe ra, thể lực nàng vốn sung mãn mà. Nàng nói : “Cám ơn em, tôi không sao, khỏe lại rồi, chắc mai đi làm lại”. Trisha rối rít xua tay : “Không được, không được, hôm qua bác sĩ ghé thăm nói cô phải uống ba ngày thuốc nữa, không phải chỉ thuốc sốt mà thuốc về phổi. Chờ mai ông Mỹ mang thuốc về đã”.
“Xin lỗi, em có gia đình chưa?” “Cha mẹ em chết vì bệnh mấy năm nay, chồng em mới chết trên núi trong kỳ động đất đầu tiên, bây giờ chỉ còn hai mẹ con, con gái em mới có mười tuổi”. Nàng bỗng nghẹn ngào, hai giọt nước mắt lăn trên gò má : “Trisha tội nghiệp quá, cho tôi gặp cháu bé được không, mà tên cháu là gì” “Dạ , Kanchan, cháu sắp đi học về tới”.